CHẠY THẬN NHÂN TẠO - CÁCH CHỮA BẰNG ĐÔNG Y.

Chào các bạn đang chạy thận nhân tạo.

 Đọc các bài viết về các bạn trên báo chí, tôi rất xót xa cho hoàn cảnh của những bệnh nhân trong hoàn cảnh này. Những người còn trẻ, đầy hoài bão ước mơ giờ phải chịu cảnh bó buột với máy chạy thận , không còn có thể sống một cuộc đời bình thường như bao người khác.
 Theo báo cáo của hội nghị thận nhân tạo 2009, Việt Nam hiện có khoảng 6 triệu người bị suy thận, trong đó có gần một trăm ngàn người bị nặng phải chạy thận nhân tạo. Quả là con số khủng khiếp.
 

  
 Tôi yêu thích về chữa bệnh, nhất là đông y, nên miệt mài nghiên cứu về sách của Hải Thượng Lãn Ông. Năm 2000, tôi có học thêm ở Viện y học dân tộc TP HCM. Qua vài năm thực hành chữa bệnh, Tôi phát hiện ra trong sách của Hải Thượng có rất nhiều bài thuốc quý giá, có thể nói là vô giá ! Vì nó có thể chữa được những bệnh bây giờ mà người ta gọi là nan y.
 Tôi nhận thấy các thầy thuốc đông y hiện tại ít biết áp dụng các nguyên lý chữa bệnh của Hải Thượng, nên chữa bệnh thường không hiệu quả, làm người bệnh quay lưng với nền y học dân tộc , mà chạy theo tây y.
 Nay với lòng không vụ lợi, chỉ muốn giúp đỡ những hoàn cảnh khó khăn, Tôi đăng bài thuốc chữa bệnh thận tốt nhất và các bài thuốc quý giá khác được trích trong sách " Hải Thượng y tông tâm lĩnh " mà tôi áp dụng thành công. Tôi cũng tìm cách đăng bài trên nhiều báo điện tử để nhiều người có thể tiếp cận được. Mong những ai vô tình đọc được bài này hãy giới thiệu cho những người đang chạy thận nhân tạo, hoặc có thể coppy thành tờ rơi để phân phát,  đó là công đức rất lớn mà các bạn đem lại cho họ.
 Tôi mong muốn tài liệu này giúp đỡ trên 6 triệu người Việt Nam đang bị suy thận, có thể chữa trị lành bệnh.
Ngoài ra nó còn giúp cho mọi người hiểu nguyên tắc phương pháp trong việc điều trị bệnh thận cho đúng. Phòng bệnh suy thận bằng cách thỉnh thoảng uống thuốc, giúp cũng cố thận không bị suy yếu.
 Tình trạng thức ăn rau cỏ bị nhiễm độc thuốc trừ sâu, trái cây trung quốc tẩm hóa chất bảo quản, sữa nhiễm Melamin, thức uống đóng chai , rau câu pha trộn hóa chất DHEP, lạm dụng thuốc kháng sinh của tây y... cũng là nguyên nhân lớn dẫn đến suy thận. Vấn đề này ta không thể tránh khỏi, nhìn vào đâu cũng thấy toàn hóa chất độc hại xung quanh. Cơ thể cứ nhiễm chất độc từ từ, tới ngày nào đó đủ nhiều sẽ bộc phát gây suy thận.  Vì vậy hãy bảo vệ thận giống như phòng cháy hơn chữa cháy.
 Qua thời gian hướng dẫn ( Từ 7/2010 đến 7/2011) có người đã khỏi suy thận và nhiều người đang giảm bệnh, chứng tỏ phương pháp này có tính ưu việt đặc biệt.
 Mỗi nhà nên in 1 tập tài liệu để tham khảo khi cần thiết, bởi ngoài trị suy thận, còn ứng dụng để điều trị nhiều bệnh nan y khác nhau như: viêm gan siêu vi B, suy tim, bại liệt, tiểu đường...
                                                        
Tháng 7 năm 2011
Lương y  Phạm Trọng Sơn.


 
Bài " Bát vị"
 
- Thục địa : 20 g , hoài sơn : 10g, bạch phục linh: 10g, sơn thù : 4g, mẫu đơn bì : 4g, trạch tả : 4g , phụ tử : 4g, nhục quế: 4g. ( 8 Vị thuốc).
 Bổ sung thêm : ngưu tất : 4g, sa tiền tử: 4g, mạch môn: 4g, ngũ vị tử(tẩm mật): 20 hột , để lợi tiểu , hạ huyết áp. ( 4 Vị thuốc).
(Nhục quế là loại vỏ dầy, ít cay, cạo bỏ lớp vỏ mỏng. Nếu uống quế mỏng , cay nhiều, dễ gây xuất huyết bao tử)

Thục địa:  bổ thận âm, bổ máu . Phụ tử, Nhục quế: tính rất nóng,  bổ thận dương, bổ mệnh môn hỏa. Ngưu tất, sa tiền tử:  lợi tiểu. Các vị khác hổ trợ tăng tác dụng cho thuốc.
     ( Phụ tử có tác dụng rất mạnh, rất nóng, không kinh mạch nào trong cơ thể mà không tới được, nhưng có độc tố, chỉ được sử dụng tối đa 8gr trong 1 thang thuốc , nhưng nếu không sử dụng thì không thể phục hồi thận dương được).

Bài này có tác dụng bổ thận âm, thận dương, và lợi tiểu, tăng bài tiết các chất độc trong cơ thể ra ngoài, lưu thông các mạch máu nuôi thận, phục hồi lại thận.(với liều lượng trên, bổ dương nhiều hơn bổ âm một chút ).
    
 Cần gia giảm phù hợp với từng người, từng giai đoạn của bệnh:
 
Nếu thận dương quá suy: Bổ mạnh thận dương bằng cách tăng nhục quế, phụ tử gấp đôi. (Tăng như vậy thuốc rất nóng, khi uống thì từng ít một để theo dõi, khi đủ rồi thì ngưng).
- Nếu thận âm quá suy: Bổ mạnh thận âm bằng cách tăng thục địa gấp đôi.
Chỉ hoàn toàn bổ thận âm: bài bát vị bỏ phụ tử và nhục quế, trở thành bài lục vị.
Nếu bí tiểu: tăng ngưu tất, sa tiền tử gấp đôi.
Nếu tỳ vị yếu : tăng hoài sơn gấp đôi.
Nếu huyết áp thấp: chỉ dùng bài bát vị ( 8 vị thuốc, không thêm 4 vị còn lại), đồng thời sắc nước nhân sâm đặc mà uống kèm. Khi sắc xong bài bát vị, thêm nước nhân sâm vào uống chung.
  Nhân sâm có tính bổ khí, tính thăng, nên làm tăng huyết áp.
  Kiêng kỵ: Khi người bị nóng sốt, bị cao huyết áp, nếu uống nhân sâm làm phát sốt cao hơn, gây nguy hiểm.
   (Cân chính xác liều lượng 3 vị : phụ tử, nhục quế, thục địa. Nếu cân sai có thể gây nguy hiểm.)
Chú ý quan trọng:
  Nếu gia giảm đúng với tình trạng, bệnh mau chóng khỏi, nếu sai thì không hiệu quả, nếu nghịch lại thì gây nguy hiểm.
  Bị cao huyết áp do suy thận, nếu gia giảm đúng thì giảm huyết áp, nếu sai thì không thay đổi, nếu nghịch thì huyết áp càng tăng.

Thận âm hư gây cao huyết áp, nhưng thận dương hư cũng gây cao huyết áp, hoặc các nguyên nhân khác . Do đó, không nên căn cứ vào huyết áp để xác định sự chênh lệch giữa 2 thận.


Nếu bạn chưa biết về thuốc, không nên tự ý sử dụng. Bởi vì có tác dụng mạnh sẽ mau khỏi bệnh, nhưng nếu dùng sai gây nguy hiểm. Các bạn nên sử dụng "Bát vị hoàn" và "Lục vị hoàn" tôi giới thiệu ở dưới, sẽ an toàn hơn.


Cách sắc thuốc và uống:
 
Cho 5 chén nước vào nấu còn 1 chén, chia làm 6 phần ,uống làm 2 ngày.
Do thuốc có tác dụng rất mạnh và nóng, không nên uống nhiều một lần.
    Sau khi uống, bạn sẽ thấy vùng thận sau lưng nóng lên, hoặc đau, nếu sờ vào vùng thận sau lưng sẽ thấy ấm rõ rệt, đó là dấu hiệu thuốc đang tác dụng hồi phục lại thận. Bạn sẽ đi tiểu nhiều hơn, nước tiểu rất khai và có thêm mùi thúi, đó là thận đang bài tiết các chất độc trong thận mà làm tắc nghẽn mạch máu nuôi thận. Khi các chất độc này được bài tiết ra ngoài, những mạch máu nuôi thận sẽ được phuc hồi, do đó thận sẽ tốt lại bình thường.

Sau khi uống vài thang, bạn cảm thấy cơ thể khỏe hơn, lúc này bạn có thể giảm chạy thận từ từ.
1 tuần còn 2 lần, rồi 1 lần. Bạn tiếp tục uống vài thang nữa, rồi sau đó bỏ hẳn. Trong thời gian này, bạn theo dõi kỹ xem có vấn đề gì không. Nếu bỏ hẳn chạy thận mà cơ thể vẫn bình thường, có nghĩa là bạn đã khỏi hẳn. Vậy xin chúc mừng bạn.

Lưu ý:
 
Nếu bị huyết áp thấp, cần uống bài tứ quân cho tăng huyết áp lên khoảng 120, sau đó mới uống kèm với bài bát vị.
Nếu tỳ vị suy yếu quá, thể hiện ăn uống kém, tay chân mỏi, người mệt, đau bao tử, tim đập nhanh, hồi hộp, cao huyết áp do tỳ yếu, cần uống bài phụ tử lý trung thang để tỳ vị tốt, sau đó mới uống kèm bài bát vị. Theo kinh nghiệm thực tế, thường xuyên uống bài này để giữ sức khỏe tốt vì có tác dụng như thuốc tăng lực, giúp mau lành bệnh. Nếu chỉ uống bài bát vị thì tỳ vị ngày càng yếu, hiệu quả sẽ thấp
Nếu người quá lạnh, cần uống bột nhục quế + mật ong một thời gian cho người ấm lên, sau đó mới uống bài bát vị.
 

Một số bài thuốc cần hỗ trợ thêm:

-Tứ quân : bổ khí tỳ phế, tính nóngNgười già cả, người có cơ thể yếu đuối, ăn uống kém, bị hạ huyết áp,
Nhân sâm lát 10 g, bạch truật :10 g, bạch phục linh: 5g , cam thảo : 2 g. Nghiền thành bột để uống. Dạng bột uống mỗi ngày 4g-8g.
   Để tăng huyết áp nhanh, thêm hoàng kỳ : 10g

Tứ linh:  lợi tiểu và bổ thêm khí tỳ vị . Bạch truật 10g, phục linh 10g, trư linh 10g( hoặc thay bằng sa tiền tử), trạch tả 10g. Nghiền thành bột để uống. Dạng bột uống mỗi ngày 4g- 8g. (Nếu người lạnh thêm 4 g  quế mỏng. Quế mỏng lợi tiểu tốt hơn nhục quế)
    Đang bị suy tim, người phù, thêm bột nhục quế  và mật ong vào uống.

Bài Lục nhấtChữa sốt, tiểu tiện đỏ, tan sỏi thận, bàng quang. Hoạt thạch(bột talc): 6gram, cam thảo: 1gram. Tán bột uống với nước ấm. Mỗi lần 4 gram.

Hổ phách lợi tiểuTrị tiểu tiện nhỏ giọt. Hổ phách nghiền bột: 4gram, hành tím: 5 củ, nấu lấy nước cho bột hổ phách vào uống.

Từ thạch hoàn: Trị cao lâm, nước tiểu dính như cao: Từ thạch (nung lửa, nhúng vào dấm 37 lần), Nhục thung dung (tẩm rượu, thái ra, sấy), Trạch tả, Hoạt thạch , 4 vị đều 40g. Tán nhuyễn, trộn với mật làm thành viên, to bằng hạt ngô đồng. Mỗi lần uống 30 viên với rượu ấm (Từ Thạch Hoàn – Thánh Tế Tổng Lục).

- Thuốc lợi tiểu thông lâm, trị các chứng phù, viêm đường tiết niệu, viêm thận:
+Trạch tả 10g, Xa tiền thảo 10g, Trư linh 10g, Thạch vỹ 10g, Mộc thông 6g, Bạch mao căn 15g, sắc nước uống.
+Trạch tả, Bạch phục linh, Trư linh, Xa tiền tử đều 12g, sắc nước uống. Trị viêm cầu thận cấp.
+Trạch tả, Bạch truật đều 10g, Cúc hoa 12g, sắc uống trị viêm thận mạn, váng đầu.
 

Tứ vật   Bổ huyết cho ganmát gan .  Thục địa 10g, đương quy 10g, bạch thược 5g, xuyên khung 3g . Nghiền thành bột, mỗi ngày 4g-8g.
  Trị bệnh viêm gan siêu vi B. Bài tứ vật thêm vài loại thuốc giải độc như: phòng phong: 4gr, tần giao:4gr.
  Cách đây 3 năm tôi có trị cho một thanh niên gần 30 tuổi mắc bệnh này, người nóng da sậm, sau khi uống 5 thang thì hết bệnh, người mát lại, da sáng lên.
  Trị đi cầu táo bón ra ít máu do thiếu máu, người nóng. Bài tứ vật thêm nhục thung dung: 10gr.
  Thường uống vài thang là khỏi.
  Nếu uống bài tứ vật mà người mệt kém ăn thì uống xen kẽ bài tứ quân

Quy tỳBổ máu cho cả gan, tỳ, tim, kèm theo bổ khí. Nhân sâm lát 10g, hoàng kỳ 10g, bạch truật 10g, đương quy 10g, cam thảo 4g, phục thần 10g, viễn chí 10g, táo nhân 10g, long nhãn 10g, mộc hương 4g, thêm 3 lát gừng, 3 quả táo tàu.( Nếu nghiền bột thì bỏ long nhãn, gừng, táo tàu cho dễ nghiền)
 Nghiền thành bột, mỗi ngày uống 4g-8g hoặc sắc uống ấm.
     (Táo nhân nếu sao đen trị bệnh mất ngủ , để sống trị bệnh ngủ nhiều, tùy theo mà sử dụng thích hợp)
     (Nếu muốn bổ tim nhiều hơn bổ tỳ, bỏ mộc hương, thêm hạt sen: 10g )
     (1 muỗng cafe thuốc = 4 gram).
    Bài này trị bệnh sưng lỡ môi miệng, nhiệt miệng lâu năm rất hay, thông thường chỉ uống vài thang là khỏi.
    Các bệnh ho ra máu, nôn ra máu hoặc đi cầu ra máu, uống vào đều khỏi.
   
- Nước gạo rang -gừng nướng Bổ khí tỳ vị , làm ấm bao tử. Trị bệnh tiêu chảy rất nhanh, thường chỉ 1-2 lần uống là khỏi, lại đơn giản.
  Gạo: 1 nắm, rang vàng đậm. Gừng : 3 lát, nướng cháy đen ngoài vỏ. Cho vào ly , chế nước sôi ngâm như pha trà.

Quế-mật ongBổ tỳ dương, mệnh môn hỏa. Trị kém ăn, người lạnh, da sạm đen, suy tim. Bột nhục quế: 1 muỗng cafe, mật ong: 2 muỗng cafe. Hòa nước ấm uống.
  Vào mùa đông giá rét, hoặc những người sống vùng băng giá, nên uống bài này để giữ ấm cho cơ thể, tránh bị đột quỵ do quá lạnh, nhất là người lớn tuổi.
( Nếu uống quế mỏng dễ gây xuất huyết bao tử).

Câu kỷ tửBổ tinh tủy, bổ máu, trị khô xương khớp, sáng mắt. Có tác dụng nhanh chóng. Mỗi ngày ăn sống 20 hột. Kiêng kỵ khi bị tiêu chảy.
     Câu kỷ tử tính bình, vị chua ngọt, thận âm hoặc dương suy đều dùng được. Có tác dụng giải ure trong máu. Tăng tác dụng trong quá trình phục hồi thận. Giá rẻ, khoảng 20.000đ/lạng, sử dụng 1 tháng mới hết. Các bạn nên sử dụng thêm vì rất đơn giản nhưng hiệu quả bất ngờ.

Sinh mạch thang: Bổ phổi. Nhân sâm: 12gr, Mạch môn: 8gr, Ngũ vị tử(tẩm mật): 40 hột. Sắc uống ấm.

- Tứ quân - lợi tiểu: Bổ khí tỳ phổi, lợi tiểu .Bài tứ quân thêm các vị lợi tiểu như: Trạch tả: 4gr, mộc thông: 4gr, trư linh: 6gr.
  Thêm táo tàu: 2 quả, Gừng 3 lát. Sắc uống ấm.

Tứ quân- Tiêu đàmBổ khí tỳ phổi, tiêu đàm. Bài tứ quân thêm các vị tiêu đàm như: Trần bì: 5gram, bán hạ: 5gram. Nghiền thành bột, mỗi ngày uống 4g-8g.

Bổ trung ích khíBổ tỳ phế. Hoàng kỳ(sao với mật ong): 4gr, Nhân sâm: 6gr, Bạch truật: 6gr,  , Đương quy(tẩm rượu sao): 4gr, Trần bì(sao thật vàng): 2gr, Cam thảo (tẩm  mật): 2gr, Sài hồ: 2gr, Thăng ma: 0,4gr.
  Thêm táo tàu: 2 quả, Gừng 3 lát. Sắc uống ấm.

-  Lý trung thang Bổ tỳ dương. Nhân sâm : 12 gr, Bạch truật (sao vàng): 8 gr, Gừng khô: 4 gr, Cam thảo: 2gr. ( 4 vị thuốc)
  Nghiền thành bột, mỗi ngày uống 4g-8g.

- Phụ tử lý trung thang : Bổ mạnh tỳ dương, thận dương . Nhân sâm : 12 gr, Bạch truật (sao vàng): 8 gr, Gừng khô: 4 gr, Cam thảo: 2gr, phụ tử: 2gr.( 5 vị thuốc).
   Nghiền thành bột, mỗi ngày uống 4g-8g.

- Quế phụ lý trung thangBổ tỳ dương, thận dương, mệnh môn hỏa. Nhân sâm : 12 gr, Bạch truật (sao vàng): 8 gr, Gừng khô: 4 gr, Cam thảo: 2gr, nhục quế: 4gr, phụ tử: 2gr.( 6 vị thuốc).
   Nghiền thành bột, mỗi ngày uống 4g-8g.

Điều nguyên cứu bản thang : Bổ mạnh tỳ dương, thận dương : Bạch truật(sao vàng): 40gr, Hoài sơn(sao vàng): 20gr, Thục địa(nướng):8gr, Thỏ ty tử: 16gr, Phá cố chỉ: 12gr, Nhục quế(mài ngoài): 4gr, Phụ tử: 4gr.
  Nghiền thành bột, mỗi ngày uống 4g-8g. Hoặc sắc uống ấm.

- Trợ dương phương Bổ mạnh tỳ dương, thận dương. Trị đờm suyễn, khó thở, huyết áp cao do thận dương hư.
Bạch truật(sao vàng): 30gr, Mạch môn(sao): 10gr, Gừng nướng đen: 10gr, Ngưu tất: 8gr, Phụ tử: 3gr, Ngũ vị tử(tẩm mật): 3gr.
     Nghiền thành bột, mỗi ngày uống 4g-8g. Hoặc sắc uống ấm.

Thanh kim đạo khí phương: lợi tiểu, trị nôn khan, khó thở, làm hạ huyết áp, giảm nhanh creatinin.  Mạch môn(sao với gạo): 8gr, Xa tiền tử(sao qua): 4gr, Xích phục linh: 4gr, Trạch tả(tẩm muối sao): 6gr, Nhục quế(mài ngoài): 4gr, Ngưu tất: 4gr, Ngũ vị tử(tẩm mật): 20 hột, Trầm hương(mài ngoài): 2gr, Gừng sống: 3 lát.
    Nghiền thành bột, mỗi ngày uống 4g-8g. Hoặc sắc uống.

Bát trân : Bổ khí huyết, đi vào trong. Hợp bài tứ quân và tứ vật.
     Nghiền thành bột, mỗi ngày uống 4g-8g hoặc sắc uống.

Thập toàn đại bổ: bồi bổ khí huyết, đi ra ngoài da, ra chân tay . Hợp thang tứ quân và tứ vật, gia thêm hoàng kỳ: 10gr, nhục quế(mài ngoài): 2gr.
      Nghiền thành bột, mỗi ngày uống 4g-8g hoặc sắc uống.

Nhị long ẩm: Bổ mạnh tinh huyết, trị kém ăn, mặt úa vàng, không ngủ, da khô, tóc rụng . Cao ban long: 20gr, long nhãn: 20gr. cho 2 chén nước nấu còn 1, chia 4 lần uống trong 2 ngày.

Do một số bạn hỏi về trị bệnh tiểu đường, nên tôi nêu 2 bài thuốc rất đặc sắc của Hải Thượng Lãn Ông để trị bệnh này, tôi cũng từng dùng bài này để điều trị và có kết quả khả quan. Bệnh tiểu đường thường do thận âm, tỳ âm suy, nếu nặng thì cả thận dương, tỳ dương suy.
Bồi thổ cố trung thang bổ tỳ dương, tỳ âm. Bạch truật (sao vàng): 20gr, Thục địa(nướng): 10gr, Cam thảo(tẩm mật ong nướng): 2gr, Gừng (nướng đen): 2gr.
(Nếu thận suy thì uống kết hợp bát vị hoàn, lục vị hoàn.)
     Nghiền thành bột, mỗi ngày uống 4g-8g, Hoặc sắc uống.

Toàn chân nhất khí thang : bổ thận âm, thận dương, tỳ âm, tỳ dương.( Bổ âm nhiều hơn bổ dương).
Thục địa: 30gr, Bạch truật: (sao vàng hạ thổ):15gr, Mạch môn: 12gr, Ngũ vị tử(tẩm mật): 20 hột, Ngưu tất: 8gr, Phụ tử: 4gr, Nhục quế: 4gr, Đỗ trọng: 10gr.
  Nếu phổi yếu thêm nhân sâm: 10gr.
   Nghiền thành bột, mỗi ngày uống 4g-8g, Hoặc sắc uống.

Nhị trần thang: Tiêu đàm ở phổi. Trị đàm suyễn, ung thư phổi do đàm, nước tràn dịch màng phổi, viêm phế quản, nôn.
Trần bì: 16gr, bạch phục linh: 8gr, gừng khô: 8gr, bán hạ: 8gr, cam thảo: 4gr. Nghiền bột, mỗi lần uống 4gr, ngày 1 -2 lần.

Cấp cứu thủybổ tim, bổ tỳ vị, bổ mệnh môn hỏa, tính nóng. Trị suy tim, trúng gió liệt nữa người, đau cứng cổ gáy.
Nhục quế: 40gr, đại hồi: 40gr, gừng khô: 40gr, hoàng kỳ: 20gr. Nghiền bột, mỗi lần uống 2-4 gr, ngày 1-2 lần. Nếu trúng gió liệt nữa người, mỗi giờ uống 1 lần tới khi ấm người, sau đó uống giảm dần.

     Tôi gặp một trường hợp cho thấy sự kỳ diệu của bài này. Kể ra để mọi người tham khảo:
     Năm 2012, một phụ nữ khoảng 40 tuổi, nữa đêm bỗng nhiên trúng gió, cổ cứng ngắt không quay được, cố gắng quay thì đau đớn như xương bị gãy, tay chân bên trái yếu dần, các thớ thịt nhão ra. Chỉ trong 30 phút mà gần như liệt, trong khi tay chân bên phải vẫn bình thường. Tôi rờ da thịt vẫn thấy ấm, đo huyết áp bình thường 120/70, tim 70. Duy chỉ có xương sống từ đốt sống cổ tới lưng bị lạnh. Tôi biết là do gió lạnh nhiễm vào gây tê liệt dây thần kinh. Tôi dùng 10v bát vị hoàn giã nhỏ hòa nước ấm rồi đút từng muỗng cho uống vì người bệnh cũng khó uống viên được. Đợi một lúc thấy không thay đổi, tôi nghĩ dùng phụ tử lý trung hoàn để ấm tỳ vị sẽ giải phong được nên lấy 20v cũng giã nhỏ như trên cho uống. Một lúc thấy bắp thịt săn lại cho thấy có hiệu quả. Nhưng chỉ 10 phút sau thịt lại nhão. Lúc này tôi nghĩ dùng cấp cứu thủy tác dụng giải phong mạnh hơn nên lấy 20v giã ra cho uống. Thịt bắt đầu săn lại và thời gian kéo dài 60 phút sau đó mới nhão. Tôi lại lấy 30v cấp cứu thủy cho uống, bệnh nhân bắt đầu quay cổ được, tay chân cử động được một ít. Sau đó cứ mỗi giờ lấy 40v cấp cứu thủy cho uống, Bệnh nhân tốt lên dần. Ba lần như vậy tới sáng thì bệnh nhân khỏe như trước. Thật là kỳ diệu. Nếu trường hợp này mà bệnh viện xa thì khi đưa tới cũng tệ hơn nữa. Do đó nếu người hay bị trúng gió mà nhà xa bệnh viện cũng nên để dành trong nhà gói thuốc phòng khi rủi ro. Hoặc uống thuốc để người khỏe mạnh mà không bị trúng gió.

Các bài thuốc trên khi nghiền bột xong cần phơi khô, bỏ vào lọ kín, để nơi khô ráo, tránh ẩm ướt.


Toa rượu bổ của Chủ tịch Mao Trạch Đông tặng Chủ tịch Hồ Chí Minh

Bài thuốc này do Chủ tịch Mao Trạch Đông tặng Chủ tịch Hồ Chí Minh trong những năm tháng tình hữu nghị giữa hai dân tộc Việt Nam và Trung Quốc thắm thiết nhất. Vì vậy, bài thuốc này có một ý nghĩa lịch sử vô cùng to lớn.

Sau khi được tặng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phổ biến và được nhiều người sử dụng đem lại hiệu quả rất tốt. Những người làm việc bằng trí óc khi dùng bài thuốc này thì không thấy mệt mỏi, trí óc sáng suốt, minh mẫn, ăn ngon, ngủ được. Còn những người làm việc chân tay gân cốt dẻo dai, lao động không biết mệt.

Thành phần bài thuốc:

1. Nhân sâm (nhị bông sâm) 40g      ( Nhân sâm lát)

2. Long nhãn nhục 40g

3. Dâm dương hoắc 40g

4. Lão thục địa 24g                         ( Thục địa)

5. Đẳng sâm 24g

6. Đương quy 24g

7. Bắc đỗ trọng (sao muối) 20g        ( Đỗ trọng)

8. Hoàng tinh 20g

9. Nhục thung dung 20g

10. Hắc táo nhân 20g                      ( Táo nhân sao đen)

11. Bạch phục linh 15g

12. Bạch truật 16g

13. Chích cam thảo 16g                   ( Cam thảo tẩm mật ong)

14. Bạch thược 16g

15. Tục doạn 16g

16. Cam kỷ tử 16g                          ( Câu kỷ tử)

17. Ngưu tất 12g

18. Đại táo 10 quả

19. Đường phèn 300g                     ( Có tài liệu nói 120g)

Cách ngâm: Thuốc đổ vào thẩu ngâm với 5 lít rượu ngon, sau 7 ngày lọc lấy rượu thuốc. Xong, nấu nửa lít nước sôi, hòa tan với đường phèn rồi đổ trộn với rượu thuốc mà dùng. Còn nước hai thì đổ 2 lít rượu ngon, ngâm 1 tháng sau mới dùng.

Mỗi ngày uống 3 lần, sáng 1 ly nhỏ, trưa 1 ly, tối 1 ly, uống sau khi ăn cơm và trước khi đi ngủ.

Bài thuốc này có tác dụng đại bổ khí huyết, điều hòa tang phủ. Bổ nhất là thận, tim, thần kinh, ngăn ngừa các bệnh phong, tê thấp, sốt rét hoặc sốt rét mới khỏe. Nếu bồi dưỡng thang này, chứng sốt rét không tái lại.

. Lương y Thích Tuệ Tam (st)

(Theo báo Thừa Thiên Huế). Sưu tầm. Nguồn: http://www.baobinhdinh.com.vn/603/2004/12/17259/

     Bài này có tác dụng bồi bổ tổng hợp âm dương khí huyết tinh tủy gân xương, hổ trợ rất tốt cho người bệnh. Các bạn nên sử dụng thêm bài này. Người bị huyết áp cao cần cẩn thận.
Dấu ngoặt tên vị thuốc tôi giải thích thêm cho rõ.
PTS.

                                                ---------------------------------------

TÁC DỤNG CƠ BẢN CÁC VỊ THUỐC.


- Bổ thận dương: phụ tử.
- Bổ mệnh môn hỏa: nhục quế.
- Bổ thận âm: thục địa.
- Bổ khí: nhân sâm, hoàng kỳ, bạch phục linh, bạch truật, hoài sơn, thỏ ty tử, phá cố chỉ...
- Bổ huyết: đương quy, bạch thược, xuyên khung,...
- Lợi tiểu: trạch tả, trư linh, sa tiền tử, mộc thông, hoạt thạch, hổ phách, hành củ...
- Giải độc: phòng phong, tần giao.
- Tiêu đờm: trần bì, bán hạ.
- Dẫn xuống: ngưu tất.
- Dẫn lên: sài hồ, thăng ma.
- Tán ra ngoài: quế mỏng, hành củ, gừng sống.
- Tính thu liễm: ngũ vị tử, gừng nướng đen, mạch môn, phục thần, hạt sen.
- Hành khí: trầm hương, mộc hương, gừng sống.
                                           -------------------------------------------------

Do các tiệm bán thuốc mỗi nơi gọi các tên quế khác nhau, nên tôi ghi ra đây để các bạn phân biệt cho đúng:

-Nhục quế: là loại vỏ dày ở thân cây, cạo bỏ lớp vỏ mỏng, ít cay, tác dụng đi vào trong, làm ấm bên trong cơ thể. Các bài thuốc trên chủ yếu dùng loại này. Khi sử dụng mài ngoài.( Nghĩa là nấu thuốc xong mới cho vào uống, vì quế kỵ lửa). Hiện giờ bột nhục quế xay sẵn bán khoảng 10000đ/lạng.
-Quế chi( Bạc quế): là loại vỏ quế mỏng ở cành cây, cay nhiều, tác dụng đi ra ngoài da, ra chân tay, chủ yếu giải cảm.
-Quế tâm: Phần gỗ cây quế, vị ngọt, đi vào tim, trị các bệnh về suy tim.

Chú ýCác bài thuốc có phụ tử mà không có thục địa kèm theo là những bài bổ dương rất mạnh, thường dùng trong cấp cứu, chỉ nên sử dụng liều lượng ít, thời gian ngắn, khi giảm bệnh thì chuyển sang những bài khác nhẹ nhàng hơn.

   Các bài thuốc này không có sẵn trên thị trường, bạn ra tiệm thuốc bắc cắt về rồi nghiền thành bột mà dùng.
   Các loại thuốc trên bạn cho vào cối xay tiêu của máy sinh tố mà nghiền thành bột . Nếu bị ẩm khó nghiền, bạn cho vào ít bột năng sẽ dễ nghiền hơn.

  Tôi cũng khuyên bạn nên làm sẵn vài bài thuốc hay dùng, cho vào hộp, dán nhãn , ghi tên thuốc , công dụng mỗi loại. khi cần thiết có sẵn mà dùng. Bởi vì khi uống thuốc thận sẽ có một số trường hợp xảy ra, ta phải dùng thuốc ứng phó cho kịp thời.

   Các loại thuốc trên phổ biến, rẻ tiền, mua ở tiệm thuốc bắc. Mỗi thang khoảng 15000đ- 30000đ.
   Do liều lượng tôi cho nhỏ nên một số tiệm không bán, vậy bạn nhân 2-5 lần khối lượng lên mà mua.

   Tuy thuốc rẻ tiền, nhưng công hiệu rất đặc biệt, Đó là do sự phối hợp các vị thuốc tài tình của các danh y ngày xưa.

Ghi chú:
  Uống thuốc bổ thận nhiều, thận tốt hơn nhưng sẽ làm tỳ vị suy yếu, người mệt mỏi kém ăn. Khi gặp trường hợp này, bạn tạm ngưng uống thuốc bổ thận vài ngày mà thay bằng bài "tứ quân", hoặc"Lý trung thang" hoặc "thập toàn đại bổ", hoặc "quy tỳhoặc " Bồi thổ cố trung thang".
  Tốt nhất nên uống xen kẽ thuốc thận và thuốc bổ tỳ trong ngày.

  Lưu ý quan trọng : 
      Đối với việc chữa bệnh thận, Uống thuốc cho cân bằng hai thận âm dương là điều rất quan trọng. Nó quyết định việc chữa khỏi hay không.
     Bạn cần hiểu rõ cách gia giảm để có thể tự mình điều chỉnh cho thích hợp với tình trạng của mình. Ở đây điều chỉnh chủ yếu là thục địa trong bài bát vị. Nếu thận âm suy nhiều thì tăng thục địa, bỏ quế, bớt phụ tử. Còn nếu thận dương suy nhiều thì giảm thục địa.

Giải thích thêm cách trị bệnh để bạn có thể gia giảm thuốc tùy theo trường hợp của mỗi người :
    Trong cơ thể , để khỏe mạnh cần có sự quân bình về âm dương , khí huyết. Âm là nói về thận âm, dương chỉ thận dương. Khí chỉ nguyên khí của tỳ, phế, huyết nói về máu chứa ở tim gan .  Thận âm chủ về tạo máu, có tính mát. Thận dương chủ về hỏa, có tính nóng. Thận dương tàng trữ năng lượng , giống như nhà máy phát điện, để cung cấp năng lượng cho toàn bộ cơ thể, duy trì mọi hoạt động bình thường.
  Khi thận âm , thận dương cân bằng, cơ thể sẽ khỏe mạnh, khi một thận bị suy yếu, cơ thể sẽ bị xáo trộn gây bệnh tật:
+Thận âm suy gây tình trạng thiếu máu, tăng huyết áp, người nóng, xuất huyết....
+Thận dương suy gây tình trạng suy nhược cơ thể, người lạnh, hạ huyết áp...
 (Có trường hợp cũng tăng huyết áp, nguời nóng...)
  Cách bồi bổ cho thận cũng trái ngược nhau. Thuốc bổ cho thận dương có tính rất nóng, còn thuốc bổ cho thận âm lại rất mát.
  Khi một thận bị suy gây chênh lệch giữa hai thận , ta cần phải bổ cho thận bị suy để đạt đến sự cân bằng. Khi đã đạt đến sư cân bằng, cơ thể sẽ khỏi bệnh và hoạt động tốt trở lại. Lúc này ta cũng ngưng uống thuốc. Nếu cứ tiếp tục uống nữa, Lại gây ra tình trạng chênh lệch, ta lại bị những bệnh khác.
    Thông thường có 2 trạng thái bệnh, 1 thận bị suy hoặc cả hai thận đều bị suy. Nếu một thận bị suy, ta chỉ cần bổ cho thận suy là đủ. Nếu cả hai thận đều bị, ta cần bổ cho cả 2 .Khi cả 2 thận bị suy, ta cần xét xem thận nào suy nhiều thì uống thuốc bổ thận đó nhiều hơn.


   Còn nói về khí huyết, cũng cần quan tâm đặc biệt. Khí thường gọi là nguyên khí, chứa ở tỳ , phế, có công năng tiêu hóa thức ăn, duy trì sức mạnh của phổi, cung cấp năng lượng cho hoạt động của tim, gan. Nếu khí yếu sẽ làm hạ huyết áp, bí đường tiểu, người lạnh. Còn huyết chứa ở tim gan, có tác dụng tuần hoàn nuôi dưỡng cơ thể. Nếu thiếu huyết sẽ làm người nóng, gây ra các bệnh về huyết.
  Khí huyết trong cơ thể cũng cần đạt sự quân bình, nếu chênh lệnh cũng gây ra bệnh.

  Khi chữa bệnh ở thận, thường sẽ làm khí huyết suy yếu, làm người mệt mỏi kém ăn, vì vậy cần chú ý bồi bổ khí huyết cho cân bằng.
   Tốt nhất vừa bổ thận vừa bổ tỳ vị. Có thể uống xen kẽ thuốc bổ tỳ vị như bài phụ tử lý trung thang, lý trung, tứ quân, quy tỳ, nước gạo rang...

   Tim phổi thuộc vùng thượng tiêu,  tỳ thuộc vùng trung tiêu, gan thận thuộc vùng hạ tiêu. Chú ý bồi bổ cho ba vùng đạt sự quân bình.

Tóm tắc:
   Âmdương, khí huyết như tứ trụ trong cơ thể. Tứ trụ này có vững, có quân bình thì cơ thể mới mạnh khỏe. Khi 1 trụ bất kỳ bị suy yếu đều có thể gây rối loạn sự hoạt động và sẽ gây ra bệnh tật trong người. Vì vậy, Trong việc chữa bệnh bằng đông y, việc phát hiện trụ nào suy yếu để bồi bổ cho đạt sự quân bình là rất quan trọng, Nó quyết định quan trọng nhất trong việc trị liệu. Như Hải Thượng Lãn Ông từng nói: Người ta có hàng trăm bệnh khác nhau, chẳng qua chỉ là mất quân bình về âm-dương- khí -huyết, cách chữa trăm bệnh cũng như cách chữa một bệnh mà thôi.
                 ----------------------------------------------------------------------------


Hiện giờ trên thị trường có bán " Bát vị hoàn" , " Lục vị hoàn" của công ty dược phẩm OPC. Giá 50.000đ/hộp. Mỗi hộp có 240 viên, nhỏ như hột đậu đen.
"Bát vị hoàn" bổ thận dương, tính nóng
"Lục vị hoàn " bổ thận âm, tính mát.
    Các bạn nên mua 2 loại này về uống cho tiện, dễ gia giảm, khỏi cần phải sắc thuốc.
    Thuốc này tốt mà lại rẻ . Được bào chế đúng với bài bát vị cổ truyền. Tôi hướng dẫn liều lượng dựa trên thuốc này.
    Mỗi hộp uống khoảng 15 ngày .(Mua ở tiệm thuốc bắc hoặc tiệm thuốc tây)

Thông thường, khi chạy thận nhân tạo, thận dương suy nhiều hơn, nên các bạn chú ý uống bát vị hoàn, còn lục vị uống khi thấy người bị nóng. Nếu uống nhiều lục vị, người sẽ rất lạnh, bị phù người, gây tràn dịch màng phổi, hoặc phát sốt.
    Bài bát vị có tác dụng bổ thận rất mạnh, chỉ cần uống vài thang là có tác dụng phục hồi thận đáng kể.

                                        Bát vị hoàn                                                                                               Lục vị hoàn
 
 
Các chi nhánh Cty OPC ở miền Bắc, miền Trung:

-Chi nhánh Miền Bắc 
 26 BT1 Lô 2 Khu đô thị Mễ Trì Hạ xã Mễ Trì - huyện Từ Liêm - Hà Nội
 ĐT: 04.37875336 - 04.37875337 - 


-Chi nhánh Miền Trung
 - 99B Nguyễn Thái Học, P.Lê Lợi - TP.Vinh, tỉnh Nghệ An. ĐT:038.3585239 -  
 - Lô A 29-35 khu đô thị đường Nguyễn Hữu Thọ,  P.Khuê Trung - Q. Cẩm Lệ - TP.Đà Nẵng. 
             ĐT : 0511.3697888 -  
- 70B Lê Hồng Phong, P.Phước Hải - TP.Nha Trang - ĐT : 058.3871315 -                         

Hướng dẫn uống bát vị hoàn và lục vị hoàn.
   - Nếu thận dương suy hơn thận âm, dùng 10 viên bát vị , ngày 2 lần.(bổ dương 7 phần, bổ âm 3 phần)
   - Bổ 2 thận ngang nhau , dùng 10 viên bát vị + 5 viên lục vị, ngày 2 lần.
   - Bổ thận âm nhiều hơn thận dương một chút: dùng 5 viên bát vị + 5 viên lục vị, ngày 2 lần.
   - Nếu thận âm suy hơn thận dương nhiều, dùng 10 viên lục vị + 5 viên bát vị , ngày 2 lần.
   - Nếu thận âm quá suy, dùng 5 hoặc 10 viên lục vị, ngày 2 lần.

   Nếu uống thấy tác dụng chậm, có thể tăng liều lên.

     Cần uống kèm thêm các bài : tứ quân, lý trung thang, quế phụ lý trung thang, phụ tử lý trung thang, bát trân, thập toàn đại bổ, quy tỳ, tứ linh, quế mật ong, nước gạo rang...tùy theo tình trạng của mỗi người cho thích hợp.
   - Khi người bị phù, tràn dịch màng phổi, đó là triệu chứng thận dương suy nặng, bạn chỉ uống bát vị thôi, uống 5-10 viên bát vị, ngày 2 lần , uống thêm bài thanh kim đạo khí + quế+ mật ong để lợi tiểu, người sẽ hết.
  
 Có thể dùng nước ấm hòa quế+ mật ong để uống bát vị hoàn, lục vị hoàn.
   Uống trước bữa ăn hoặc sau đều được .
   Không kiêng cử về ăn uống.
   Các loại thuốc tây uống cách thuốc đông y 2 tiếng .
(Bát vị hoàn có tác dụng bổ cả âm dương nhưng bổ dương 7 phần, bổ âm 3 phần)

Đối với người chạy thận nhân tạo, bí tiểu , tràn dịch màng phổi , phù người, suy tim là điều đáng sợ nhất. Nhưng hiện nay đã có bài  Bát vị + thanh kim đạo khí + quế+ mật ong  là khắc tinh của nó .

Xem hướng dẫn bằng video:
Phần 1:   http://www.youtube.com/watch?v=doDzocg2xN4
Phần 2:   http://www.youtube.com/watch?v=3KO5jDVOtlU

Video " Chương trình tôn vinh báu vật gia truyền Việt Nam":
http://www.youtube.com/watch?v=FTMnQzG9pro

Video của thầy Đỗ Đức Ngọc hướng dẫn chữa gan thận:
http://www.youtube.com/watch?v=Sc1yHY1UegM&NR=1&feature=endscreen

Video : Gặp những người chạy thận nhân tạo. Điều trị có kết quả tốt.
https://www.youtube.com/watch?v=4C2luQ21SAk
                                  ---------------------------------------------------------

DÙNG THUỐC GÌ ĐỂ UỐNG "BÁT VỊ HOÀN"

1.Chiêu bằng nước muối loãng là để đem hỏa trở xuống.( Chiêu tức là dùng nước thuốc để uống bát vị hoàn dạng viên)
2.Chiêu bằng nước gạo rang(vàng đậm) để bổ thêm tạng tỳ.
3.Chiêu bằng nước lã đun sôi là không chóng không chậm.
4.Chiêu bằng rượu hâm nóng là để dẫn thuốc cho mạnh.
5.Sắc nước bài "Bổ trung ích khí" để chiêu đi, là e bài "Bát vị" đi xuống dưới quá mức mà dưới thực trên hư, thời lại đem nguyên khí lên phần nào.
6.Sắc bài "Lý trung thang" lấy nước để chiêu đi, là gặp chứng tỳ và vị lạnh quá, phải ôn trung tiêu mới dẫn được sức thuốc của bài "Bát vị".
7.Sắc bài "Sinh mạch thang" lấy nước để chiêu đi, là giúp cho tạng phế mạnh lên để sinh ra ra thận.
8.Sắc bài "Quy tỳ thang" lấy nước để chiêu đi, là để bổ cả khí huyết về hậu thiên, cũng như uống xen với bài "Quy tỳ".
9.Sắc nước sâm(sao với gạo) để chiêu đi, là để sinh cả dương khí.( Trường hợp người mệt, huyết áp hạ).
     Những phép chiêu thuốc hoàn kể trên, vì bệnh chứng cần cấp, cần phải chữa cả gốc(Thận) và ngọn(Khí huyết) nên phải mượn sức mạnh của những nước kể trên chiêu đi, để mở đường đưa thuốc của bài "Bát vị" xuống đến hạ tiêu, công dụng của thuốc nước vừa qua, thời công dụng của thuốc hoàn sẽ tới.

                                     --------------------------------------------------------

Cẩn thận :
   + Một vài trường hợp rất khó xác định thận nào suy hơn, do đó khi uống thuốc nếu thấy có các biểu hiện xấu, tức là đã chẩn đoán sai, các bạn phải nhanh chóng gia giảm lại thuốc. Hoặc uống với liều lượng ít để theo dõi.
   + Đang uống thuốc có biểu hiện tốt, chứng tỏ thận đang đi đến cân bằng, các bạn cứ tiếp tục uống. Nếu thấy từ từ giảm rồi chuyển qua biểu hiện xấu, tức là thận đang chuyển qua giai đoạn mất cân bằng, các bạn cũng cần gia giảm lại .      
                                        ===================================

                             CÁCH PHÂN BIỆT THẬN DƯƠNG - THẬN ÂM SUY.
Về mạch:
   Xét bộ mạch xích bên phải yếu hơn bộ xích bên trái, là thận dương hư tổn .
Về hình :
   Dương hư hình thể gầy, diện bộ bạc nhược hay là béo trắng mà trệ nệ.
   Âm suy hình thể gầy đen hay là lưỡng quyền và mép thường đỏ.
Về chứng bệnh :
   Dù là ở trên nóng giống nhau, nhưng ta phân biệt rằng khát mà không uống được nhiều là dương suy, khát mà uống nhiều là âm suy.
  Trên nóng dưới lạnh, trong người lạnh ngoài da nóng, đại tiện lỏng phân là dương suy.
  Nóng cả người, đại tiện táo kết là âm suy.

  Các triệu chứng thận dương suy:
- Lòng bàn chân lạnh.
- Viêm amidan, viêm họng, uống nước đá càng sưng.
- Nước tiểu trong như nước suối.
- Hay đi tiểu đêm.
- Nóng sốt bên ngoài mà sợ lạnh, trán nóng mà lòng bàn chân lạnh.( Trường hợp này người lớn hay trẻ em thường bị . Người lớn uống 10 viên bát vị, trẻ em uống 1 viên, chỉ 1 lần là giảm bớt đáng kể. Sau vài lần uống là ổn định. Nhiều trường hợp bị sốt cấp tính như vậy, khi đi bệnh viện, họ hạ sốt, sau đó đưa đi chạy thận. Thật là oan uổng. Nếu chúng ta biết xử trí sẽ tránh được nguy cơ chạy thận , lại rất đơn giản).                            
                                   --------------------------------------------------------

Chúc các bạn mau khỏi bệnh.
Lương Y : Phạm Trọng Sơn.
ĐT : 0909 658341

(84) 909 658 341
Mail : trongson1967@yahoo.com
Đc : 515/21, khu 1, ấp 2 , xã Tân Định, huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương, Việt Nam.
( Gần khu du lịch Đại Nam )
 
Phòng chẩn trị y học cổ truyền,
Chi hội chữ thập đỏ xã Tân định .
 
 

Các bạn có thể gọi đt để tư vấn thêm: 0909 658 341

Bạn nào theo hướng dẫn trên để chữa bệnh, hãy ghi tên tuổi, địa chỉ, số điện thoại, tình trạng bệnh cùng kinh nghiệm chữa của mình để mọi người học hỏi thêm. Chúng ta hãy tạo một diễn đàn, nơi những người bị bệnh thận có nơi để trao đổi thông tin. Các bạn ghi vào phần nhận xét. Cám ơn các bạn.
                                                   --------------------------------------------

SƠ LƯỢC LỊCH SỬ BÀI BÁT VỊ.
  

 Trước vua Vũ Đế nhà Hán bên Trung Hoa cầu làm thần tiên, uống nhiều thuốc đan sa, rồi phát sốt khát nước nhiều, tiểu tiện nhiều. Ông Trương Trọng Cảnh ( tên hiệu là Tràng Sa) chế ra phương thuốc này để chữa cho nhà vua được khỏe.
  Bài này để chữa chứng hỏa mệnh môn suy yếu, tướng hỏa ở hậu thận bên phải không đầy đủ, nên không sinh được tỳ , đến nổi tỳ vị yếu mà lạnh, người gầy, khí kém, không thiết ăn uống, đại tiện lỏng, rún và bụng hay đau, đêm hay đi tiểu tiện, hỏa kém đờm nhiều.
   Sách Tinh yếu có nói " Bài bát vị này, uống lâu thời người mạnh mà sinh con trai". Ông Trọng cảnh có nói : " người khí hư yếu mà có đờm uống bài bát vị để bổ thời trục được đờm, Chữa chứng nước dềnh lên thành đờm thời bài bát vị này là thánh dược"
  Các chứng bệnh phong, bệnh lao, cổ chướng, chứng cách , uống bài bát vị đều có thể khỏi.
  Nếu bỏ phụ tử, quế trong bài bát vị, sẽ thành bài lục vị, bổ thận âm.
  Bài lục vị chữa chứng tạng can ,tạng thận không đầy đủ, chân âm suy kém, tinh khô huyết kiệt, đau lưng mỏi chân,di tinh, tiện huyết, khát nhiều đi đái nhiều( tiểu đường), thổ huyết, răng lung lay, chữa chứng phát sốt của trẻ em, gót chân đau, lưỡi khô hay đau...
   Hải Thượng rất chú trọng 2 bài bát vị và lục vị.Ông thường nói 2 bài này là thánh dược, có công năng xoay chuyển tình thế. Ông thường xuyên dùng cho các bệnh nhân bệnh rất nặng, hiểm nghèo. Hễ dùng đến là có công hiệu tức thời. Ông nói, bệnh nhẹ thì chữa về khí huyết, bệnh nặng thì chữa về âm dương. Bệnh nặng mà chữa về khí huyết thì không có tác dụng. Ông nói âm dương là gốc của cơ thể, mọi bệnh đều có liên quan đến âm dương.
Tuổi thọ hay chết yểu đều nằm ở âm dương.
Trích " Hải Thượng y Tông Tâm lĩnh "
                              ===========================================

Một số bệnh nan y được Hải Thượng Lãn ông chữa trị 
                                     (Ghi trong bộ " Hải Thượng Y tôn tâm lĩnh")


1- Chứng bán thân bất toại.
   Một vị quan Tướng quốc họ Lý, vì dẹp giặc trải nhiều phong sương, thành bệnh cánh tay bên trái ngay ra mà đau, không với được lên đầu và sau lưng. các thầy thuốc đã dùng thuốc khu phong mà không công hiệu. Bệnh nhân đại tiện ra như viên đạn. Bộ mạch đại mà trì, hoãn, không có thần.Thế là khí ở trong hư yếu đã lâu, khí huyết không chu lưu đến chân tay mới thành ra chứng khô nửa người như kể ở trên.
   Tôi cho uống bài Bát vị  thêm ngưu tất, đỗ trọng. Mỗi lần uống 4 chỉ ( 1 chỉ = 1 đồng cân = 4 gram) với nước muối loãng, mà ăn cơm  đã lâu, thời dùng bài quy tỳ thêm ít quế chi (quế vỏ mỏng)và quế tâm(phần gỗ cây quế), rồi khí huyết sung túc mà mọi chứng khỏi hẳn.

2- Chứng chiêm bao lạ.
  Tước vương Uyển Bình gặp chứng nằm chiêm bao mang đồ nặng nhọc, mà tỉnh ra vẫn thấy mệt. Khi ngủ lại chiêm bao như trước. Như thế một đêm đến mấy mươi lần.. Thầy thuốc đã dùng thuốc bổ tâm an thần nhưng không có công hiệu.
  Người ngủ thời tâm thần tàng nạp về thận. Đó là thủy hỏa gặp nhau, âm dương làm xong công việc. Nay âm tạng tâm không đầy đủ, chỉ có hỏa bốc lên mà không tương giao với tạng thận, khí của tạng thận đã yếu, không đem lên để hợp với âm của tạng tâm, mà thiếu chức vụ bế tàng lại.
  Tôi nghĩ như vậy mới dùng bài bát vị hoàn thêm ngũ vị, ngưu tất và lấy đăng tâm(bấc đèn) với hạt sen sắc lấy nước để uống thuốc thời bệnh nhân được yên.

3- Chứng đi tả về sáng sớm.(Thần tả)
    Ông Kim Thiệu phải chứng đi cầu về sáng sớm. Mạch thời 2 bộ thốn, bộ quan đều nhược, trầm, và vô lực, hai bộ xích lại rất trầm. Tôi cho uống bài bát vị bỏ mẫu đơn, trạch tả, thêm phá cố chỉ, ngũ vị tử, thỏ ty tử làm thuốc hoàn. Sáng và chiều uống 4 chỉ (20gram) thời bệnh khỏi, mà nữa năm sau sanh được con trai. Cho nên sách " Tinh yếu" có nói: " Uống bài bát vị thời người mạnh và nhiều con trai".

4- Chứng sốt rét.
   Một người tú tài mắc phải chứng sốt rét. Lúc sốt thời lợm lòng đầy bụng, các thầy thuốc cho là vì đàm vì ăn mà dùng những vị thuốc cay và nóng, Nhưng không biết vị tú tài ấy vốn có chứng lục huyết, nên uống như thế thời huyết ra nhiều quá mà bất tỉnh nhân sự, mồ hôi lạnh mà đông như cúc áo, bốn chân tay cũng lạnh, mạch tỳ vị sắp tuyệt. Tôi mới cho uống hơn một lạng sâm(40gram), dù có tỉnh ra nhưng phát nấc không ngừng. Tôi mới dùng thuốc ôn bổ, rồi cho uống bát vị hoàn, xen với bài thập toàn đại bổ mà khỏi hẳn.

5- Chứng đi đái ra huyết.
   Người họ Lý đã 60 tuổi, phải chứng đái rắt đã 2 năm, có lúc đi dễ mà vội vàng, có lúc một giọt cũng không đi được mà bụng dưới đau như cắt ra, nước tiểu thời như mỡ hay ra huyết tím. Tôi xét mạch thời 2 bộ thốn hồng và đại, các bộ khác đều vô lực mà mạch tạng can tạng thận tệ hơn.Thế là tạng can để vợi đi, tạng thận để vít lại đều không giữ được chức vụ.
  Tôi mới cho uống bài bát vị, thêm mạch môn, thăng ma, hồng hoa và uống thêm nước sâm cho thanh khí thăng lên, trọc khí giáng xuống, ứ huyết tản đi, thời bệnh nhân đỡ dần. Sau tôi sắc bài sinh mạch để uống bát vị hoàn mà quá trưa uống bài quy tỳ gia giảm, thời bệnh nhân khỏi hẳn.

6- Cầu tự.
  Một người muộn có con. Mạch bộ xích bên phải vô lực, thế là thận dương kém, mạch bộ xích bên trái không trầm không thạch, thế là thận âm cũng kém. Tôi mới dùng bài bát vị hoàn cho uống. Nhưng  lại xét rằng, nếu huyết kém thì không sinh được tinh, mà tạng tâm chủ về huyết,( người không có con là bởi tạng tâm, người bạc tóc là bởi tạng thận), nên việc cầu tự không những phải bổ tạng thận mà còn phải bổ tạng tâm.
  Vì lẽ đó, mà tôi còn làm thuốc hoàn như sau để cho bệnh nhân uống:
-Hoàng kỳ : 160gram.
-Đương quy: 120gram.
-Táo nhân: 120 gram.
-Thục địa: 240gram.
-Bạch truật : 160gram.
-Viễn chí : 80gram.
-Mạch môn : 120gram.
-Bạch thược: 80gram.
-Đỗ trọng: 120gram.
-Tục đoạn: 120gram.
-Ngưu tất : 120gram.
   Trước hết lấy 1,2 kg hạt sen bỏ lõi và màng ở ngoài rồi sắc lấy nước bỏ bã, xong đem những vị thuốc kể trên cho vào nước ấy đun thành cao rồi cho vào những vị thuốc đã tán bột kê sau đây:
-Nhân sâm: 200gram.
-Phục linh: 120gram.
-Phục thần: 120gram.
   Sau đó, làm thành viên, mỗi viên nặng 16gram, lúc đi ngủ uống 1 viên với nước ấm, uống xen với bát vị hoàn. Như thế thời bệnh nhân được khỏi mà sau sinh con trai.

7- Chứng thạch thư.( Nhọt rắn như đá).(Theo mô tả tôi th%

Toa rượu bổ của Chủ tịch Mao Trạch Đông tặng Chủ tịch Hồ Chí Minh

Bài thuốc này do Chủ tịch Mao Trạch Đông tặng Chủ tịch Hồ Chí Minh trong những năm tháng tình hữu nghị giữa hai dân tộc Việt Nam và Trung Quốc thắm thiết nhất. Vì vậy, bài thuốc này có một ý nghĩa lịch sử vô cùng to lớn.

Sau khi được tặng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phổ biến và được nhiều người sử dụng đem lại hiệu quả rất tốt. Những người làm việc bằng trí óc khi dùng bài thuốc này thì không thấy mệt mỏi, trí óc sáng suốt, minh mẫn, ăn ngon, ngủ được. Còn những người làm việc chân tay gân cốt dẻo dai, lao động không biết mệt.

Thành phần bài thuốc:

1. Nhân sâm (nhị bông sâm) 40g      ( Nhân sâm lát)

2. Long nhãn nhục 40g

3. Dâm dương hoắc 40g

4. Lão thục địa 24g                         ( Thục địa)

5. Đẳng sâm 24g

6. Đương quy 24g

7. Bắc đỗ trọng (sao muối) 20g        ( Đỗ trọng)

8. Hoàng tinh 20g

9. Nhục thung dung 20g

10. Hắc táo nhân 20g                      ( Táo nhân sao đen)

11. Bạch phục linh 15g

12. Bạch truật 16g

13. Chích cam thảo 16g                   ( Cam thảo tẩm mật ong)

14. Bạch thược 16g

15. Tục doạn 16g

16. Cam kỷ tử 16g                          ( Câu kỷ tử)

17. Ngưu tất 12g

18. Đại táo 10 quả

19. Đường phèn 300g                     ( Có tài liệu nói 120g)

Cách ngâm: Thuốc đổ vào thẩu ngâm với 5 lít rượu ngon, sau 7 ngày lọc lấy rượu thuốc. Xong, nấu nửa lít nước sôi, hòa tan với đường phèn rồi đổ trộn với rượu thuốc mà dùng. Còn nước hai thì đổ 2 lít rượu ngon, ngâm 1 tháng sau mới dùng.

Mỗi ngày uống 3 lần, sáng 1 ly nhỏ, trưa 1 ly, tối 1 ly, uống sau khi ăn cơm và trước khi đi ngủ.

Bài thuốc này có tác dụng đại bổ khí huyết, điều hòa tang phủ. Bổ nhất là thận, tim, thần kinh, ngăn ngừa các bệnh phong, tê thấp, sốt rét hoặc sốt rét mới khỏe. Nếu bồi dưỡng thang này, chứng sốt rét không tái lại.

. Lương y Thích Tuệ Tam (st)

(Theo báo Thừa Thiên Huế). Sưu tầm. Nguồn: http://www.baobinhdinh.com.vn/603/2004/12/17259/

     Bài này có tác dụng bồi bổ tổng hợp âm dương khí huyết tinh tủy gân xương, hổ trợ rất tốt cho người bệnh. Các bạn nên sử dụng thêm bài này. Người bị huyết áp cao cần cẩn thận.
Dấu ngoặt tên vị thuốc tôi giải thích thêm cho rõ.
PTS.

                                                ---------------------------------------

TÁC DỤNG CƠ BẢN CÁC VỊ THUỐC.


- Bổ thận dương: phụ tử.
- Bổ mệnh môn hỏa: nhục quế.
- Bổ thận âm: thục địa.
- Bổ khí: nhân sâm, hoàng kỳ, bạch phục linh, bạch truật, hoài sơn, thỏ ty tử, phá cố chỉ...
- Bổ huyết: đương quy, bạch thược, xuyên khung,...
- Lợi tiểu: trạch tả, trư linh, sa tiền tử, mộc thông, hoạt thạch, hổ phách, hành củ...
- Giải độc: phòng phong, tần giao.
- Tiêu đờm: trần bì, bán hạ.
- Dẫn xuống: ngưu tất.
- Dẫn lên: sài hồ, thăng ma.
- Tán ra ngoài: quế mỏng, hành củ, gừng sống.
- Tính thu liễm: ngũ vị tử, gừng nướng đen, mạch môn, phục thần, hạt sen.
- Hành khí: trầm hương, mộc hương, gừng sống.
                                           -------------------------------------------------

Do các tiệm bán thuốc mỗi nơi gọi các tên quế khác nhau, nên tôi ghi ra đây để các bạn phân biệt cho đúng:

-Nhục quế: là loại vỏ dày ở thân cây, cạo bỏ lớp vỏ mỏng, ít cay, tác dụng đi vào trong, làm ấm bên trong cơ thể. Các bài thuốc trên chủ yếu dùng loại này. Khi sử dụng mài ngoài.( Nghĩa là nấu thuốc xong mới cho vào uống, vì quế kỵ lửa). Hiện giờ bột nhục quế xay sẵn bán khoảng 10000đ/lạng.
-Quế chi( Bạc quế): là loại vỏ quế mỏng ở cành cây, cay nhiều, tác dụng đi ra ngoài da, ra chân tay, chủ yếu giải cảm.
-Quế tâm: Phần gỗ cây quế, vị ngọt, đi vào tim, trị các bệnh về suy tim.

Chú ýCác bài thuốc có phụ tử mà không có thục địa kèm theo là những bài bổ dương rất mạnh, thường dùng trong cấp cứu, chỉ nên sử dụng liều lượng ít, thời gian ngắn, khi giảm bệnh thì chuyển sang những bài khác nhẹ nhàng hơn.

   Các bài thuốc này không có sẵn trên thị trường, bạn ra tiệm thuốc bắc cắt về rồi nghiền thành bột mà dùng.
   Các loại thuốc trên bạn cho vào cối xay tiêu của máy sinh tố mà nghiền thành bột . Nếu bị ẩm khó nghiền, bạn cho vào ít bột năng sẽ dễ nghiền hơn.

  Tôi cũng khuyên bạn nên làm sẵn vài bài thuốc hay dùng, cho vào hộp, dán nhãn , ghi tên thuốc , công dụng mỗi loại. khi cần thiết có sẵn mà dùng. Bởi vì khi uống thuốc thận sẽ có một số trường hợp xảy ra, ta phải dùng thuốc ứng phó cho kịp thời.

   Các loại thuốc trên phổ biến, rẻ tiền, mua ở tiệm thuốc bắc. Mỗi thang khoảng 15000đ- 30000đ.
   Do liều lượng tôi cho nhỏ nên một số tiệm không bán, vậy bạn nhân 2-5 lần khối lượng lên mà mua.

   Tuy thuốc rẻ tiền, nhưng công hiệu rất đặc biệt, Đó là do sự phối hợp các vị thuốc tài tình của các danh y ngày xưa.

Ghi chú:
  Uống thuốc bổ thận nhiều, thận tốt hơn nhưng sẽ làm tỳ vị suy yếu, người mệt mỏi kém ăn. Khi gặp trường hợp này, bạn tạm ngưng uống thuốc bổ thận vài ngày mà thay bằng bài "tứ quân", hoặc"Lý trung thang" hoặc "thập toàn đại bổ", hoặc "quy tỳhoặc " Bồi thổ cố trung thang".
  Tốt nhất nên uống xen kẽ thuốc thận và thuốc bổ tỳ trong ngày.

  Lưu ý quan trọng : 
      Đối với việc chữa bệnh thận, Uống thuốc cho cân bằng hai thận âm dương là điều rất quan trọng. Nó quyết định việc chữa khỏi hay không.
     Bạn cần hiểu rõ cách gia giảm để có thể tự mình điều chỉnh cho thích hợp với tình trạng của mình. Ở đây điều chỉnh chủ yếu là thục địa trong bài bát vị. Nếu thận âm suy nhiều thì tăng thục địa, bỏ quế, bớt phụ tử. Còn nếu thận dương suy nhiều thì giảm thục địa.

Giải thích thêm cách trị bệnh để bạn có thể gia giảm thuốc tùy theo trường hợp của mỗi người :
    Trong cơ thể , để khỏe mạnh cần có sự quân bình về âm dương , khí huyết. Âm là nói về thận âm, dương chỉ thận dương. Khí chỉ nguyên khí của tỳ, phế, huyết nói về máu chứa ở tim gan .  Thận âm chủ về tạo máu, có tính mát. Thận dương chủ về hỏa, có tính nóng. Thận dương tàng trữ năng lượng , giống như nhà máy phát điện, để cung cấp năng lượng cho toàn bộ cơ thể, duy trì mọi hoạt động bình thường.
  Khi thận âm , thận dương cân bằng, cơ thể sẽ khỏe mạnh, khi một thận bị suy yếu, cơ thể sẽ bị xáo trộn gây bệnh tật:
+Thận âm suy gây tình trạng thiếu máu, tăng huyết áp, người nóng, xuất huyết....
+Thận dương suy gây tình trạng suy nhược cơ thể, người lạnh, hạ huyết áp...
 (Có trường hợp cũng tăng huyết áp, nguời nóng...)
  Cách bồi bổ cho thận cũng trái ngược nhau. Thuốc bổ cho thận dương có tính rất nóng, còn thuốc bổ cho thận âm lại rất mát.
  Khi một thận bị suy gây chênh lệch giữa hai thận , ta cần phải bổ cho thận bị suy để đạt đến sự cân bằng. Khi đã đạt đến sư cân bằng, cơ thể sẽ khỏi bệnh và hoạt động tốt trở lại. Lúc này ta cũng ngưng uống thuốc. Nếu cứ tiếp tục uống nữa, Lại gây ra tình trạng chênh lệch, ta lại bị những bệnh khác.
    Thông thường có 2 trạng thái bệnh, 1 thận bị suy hoặc cả hai thận đều bị suy. Nếu một thận bị suy, ta chỉ cần bổ cho thận suy là đủ. Nếu cả hai thận đều bị, ta cần bổ cho cả 2 .Khi cả 2 thận bị suy, ta cần xét xem thận nào suy nhiều thì uống thuốc bổ thận đó nhiều hơn.


   Còn nói về khí huyết, cũng cần quan tâm đặc biệt. Khí thường gọi là nguyên khí, chứa ở tỳ , phế, có công năng tiêu hóa thức ăn, duy trì sức mạnh của phổi, cung cấp năng lượng cho hoạt động của tim, gan. Nếu khí yếu sẽ làm hạ huyết áp, bí đường tiểu, người lạnh. Còn huyết chứa ở tim gan, có tác dụng tuần hoàn nuôi dưỡng cơ thể. Nếu thiếu huyết sẽ làm người nóng, gây ra các bệnh về huyết.
  Khí huyết trong cơ thể cũng cần đạt sự quân bình, nếu chênh lệnh cũng gây ra bệnh.

  Khi chữa bệnh ở thận, thường sẽ làm khí huyết suy yếu, làm người mệt mỏi kém ăn, vì vậy cần chú ý bồi bổ khí huyết cho cân bằng.
   Tốt nhất vừa bổ thận vừa bổ tỳ vị. Có thể uống xen kẽ thuốc bổ tỳ vị như bài phụ tử lý trung thang, lý trung, tứ quân, quy tỳ, nước gạo rang...

   Tim phổi thuộc vùng thượng tiêu,  tỳ thuộc vùng trung tiêu, gan thận thuộc vùng hạ tiêu. Chú ý bồi bổ cho ba vùng đạt sự quân bình.

Tóm tắc:
   Âmdương, khí huyết như tứ trụ trong cơ thể. Tứ trụ này có vững, có quân bình thì cơ thể mới mạnh khỏe. Khi 1 trụ bất kỳ bị suy yếu đều có thể gây rối loạn sự hoạt động và sẽ gây ra bệnh tật trong người. Vì vậy, Trong việc chữa bệnh bằng đông y, việc phát hiện trụ nào suy yếu để bồi bổ cho đạt sự quân bình là rất quan trọng, Nó quyết định quan trọng nhất trong việc trị liệu. Như Hải Thượng Lãn Ông từng nói: Người ta có hàng trăm bệnh khác nhau, chẳng qua chỉ là mất quân bình về âm-dương- khí -huyết, cách chữa trăm bệnh cũng như cách chữa một bệnh mà thôi.
                 ----------------------------------------------------------------------------


Hiện giờ trên thị trường có bán " Bát vị hoàn" , " Lục vị hoàn" của công ty dược phẩm OPC. Giá 50.000đ/hộp. Mỗi hộp có 240 viên, nhỏ như hột đậu đen.
"Bát vị hoàn" bổ thận dương, tính nóng
"Lục vị hoàn " bổ thận âm, tính mát.
    Các bạn nên mua 2 loại này về uống cho tiện, dễ gia giảm, khỏi cần phải sắc thuốc.
    Thuốc này tốt mà lại rẻ . Được bào chế đúng với bài bát vị cổ truyền. Tôi hướng dẫn liều lượng dựa trên thuốc này.
    Mỗi hộp uống khoảng 15 ngày .(Mua ở tiệm thuốc bắc hoặc tiệm thuốc tây)

Thông thường, khi chạy thận nhân tạo, thận dương suy nhiều hơn, nên các bạn chú ý uống bát vị hoàn, còn lục vị uống khi thấy người bị nóng. Nếu uống nhiều lục vị, người sẽ rất lạnh, bị phù người, gây tràn dịch màng phổi, hoặc phát sốt.
    Bài bát vị có tác dụng bổ thận rất mạnh, chỉ cần uống vài thang là có tác dụng phục hồi thận đáng kể.

                                        Bát vị hoàn                                                                                               Lục vị hoàn
 
 
Các chi nhánh Cty OPC ở miền Bắc, miền Trung:

-Chi nhánh Miền Bắc 
 26 BT1 Lô 2 Khu đô thị Mễ Trì Hạ xã Mễ Trì - huyện Từ Liêm - Hà Nội
 ĐT: 04.37875336 - 04.37875337 - 


-Chi nhánh Miền Trung
 - 99B Nguyễn Thái Học, P.Lê Lợi - TP.Vinh, tỉnh Nghệ An. ĐT:038.3585239 -  
 - Lô A 29-35 khu đô thị đường Nguyễn Hữu Thọ,  P.Khuê Trung - Q. Cẩm Lệ - TP.Đà Nẵng. 
             ĐT : 0511.3697888 -  
- 70B Lê Hồng Phong, P.Phước Hải - TP.Nha Trang - ĐT : 058.3871315 -                         

Hướng dẫn uống bát vị hoàn và lục vị hoàn.
   - Nếu thận dương suy hơn thận âm, dùng 10 viên bát vị , ngày 2 lần.(bổ dương 7 phần, bổ âm 3 phần)
   - Bổ 2 thận ngang nhau , dùng 10 viên bát vị + 5 viên lục vị, ngày 2 lần.
   - Bổ thận âm nhiều hơn thận dương một chút: dùng 5 viên bát vị + 5 viên lục vị, ngày 2 lần.
   - Nếu thận âm suy hơn thận dương nhiều, dùng 10 viên lục vị + 5 viên bát vị , ngày 2 lần.
   - Nếu thận âm quá suy, dùng 5 hoặc 10 viên lục vị, ngày 2 lần.

   Nếu uống thấy tác dụng chậm, có thể tăng liều lên.

     Cần uống kèm thêm các bài : tứ quân, lý trung thang, quế phụ lý trung thang, phụ tử lý trung thang, bát trân, thập toàn đại bổ, quy tỳ, tứ linh, quế mật ong, nước gạo rang...tùy theo tình trạng của mỗi người cho thích hợp.
   - Khi người bị phù, tràn dịch màng phổi, đó là triệu chứng thận dương suy nặng, bạn chỉ uống bát vị thôi, uống 5-10 viên bát vị, ngày 2 lần , uống thêm bài thanh kim đạo khí + quế+ mật ong để lợi tiểu, người sẽ hết.
  
 Có thể dùng nước ấm hòa quế+ mật ong để uống bát vị hoàn, lục vị hoàn.
   Uống trước bữa ăn hoặc sau đều được .
   Không kiêng cử về ăn uống.
   Các loại thuốc tây uống cách thuốc đông y 2 tiếng .
(Bát vị hoàn có tác dụng bổ cả âm dương nhưng bổ dương 7 phần, bổ âm 3 phần)

Đối với người chạy thận nhân tạo, bí tiểu , tràn dịch màng phổi , phù người, suy tim là điều đáng sợ nhất. Nhưng hiện nay đã có bài  Bát vị + thanh kim đạo khí + quế+ mật ong  là khắc tinh của nó .

Xem hướng dẫn bằng video:
Phần 1:   http://www.youtube.com/watch?v=doDzocg2xN4
Phần 2:   http://www.youtube.com/watch?v=3KO5jDVOtlU

Video " Chương trình tôn vinh báu vật gia truyền Việt Nam":
http://www.youtube.com/watch?v=FTMnQzG9pro

Video của thầy Đỗ Đức Ngọc hướng dẫn chữa gan thận:
http://www.youtube.com/watch?v=Sc1yHY1UegM&NR=1&feature=endscreen

Video : Gặp những người chạy thận nhân tạo. Điều trị có kết quả tốt.
https://www.youtube.com/watch?v=4C2luQ21SAk
                                  ---------------------------------------------------------

DÙNG THUỐC GÌ ĐỂ UỐNG "BÁT VỊ HOÀN"

1.Chiêu bằng nước muối loãng là để đem hỏa trở xuống.( Chiêu tức là dùng nước thuốc để uống bát vị hoàn dạng viên)
2.Chiêu bằng nước gạo rang(vàng đậm) để bổ thêm tạng tỳ.
3.Chiêu bằng nước lã đun sôi là không chóng không chậm.
4.Chiêu bằng rượu hâm nóng là để dẫn thuốc cho mạnh.
5.Sắc nước bài "Bổ trung ích khí" để chiêu đi, là e bài "Bát vị" đi xuống dưới quá mức mà dưới thực trên hư, thời lại đem nguyên khí lên phần nào.
6.Sắc bài "Lý trung thang" lấy nước để chiêu đi, là gặp chứng tỳ và vị lạnh quá, phải ôn trung tiêu mới dẫn được sức thuốc của bài "Bát vị".
7.Sắc bài "Sinh mạch thang" lấy nước để chiêu đi, là giúp cho tạng phế mạnh lên để sinh ra ra thận.
8.Sắc bài "Quy tỳ thang" lấy nước để chiêu đi, là để bổ cả khí huyết về hậu thiên, cũng như uống xen với bài "Quy tỳ".
9.Sắc nước sâm(sao với gạo) để chiêu đi, là để sinh cả dương khí.( Trường hợp người mệt, huyết áp hạ).
     Những phép chiêu thuốc hoàn kể trên, vì bệnh chứng cần cấp, cần phải chữa cả gốc(Thận) và ngọn(Khí huyết) nên phải mượn sức mạnh của những nước kể trên chiêu đi, để mở đường đưa thuốc của bài "Bát vị" xuống đến hạ tiêu, công dụng của thuốc nước vừa qua, thời công dụng của thuốc hoàn sẽ tới.

                                     --------------------------------------------------------

Cẩn thận :
   + Một vài trường hợp rất khó xác định thận nào suy hơn, do đó khi uống thuốc nếu thấy có các biểu hiện xấu, tức là đã chẩn đoán sai, các bạn phải nhanh chóng gia giảm lại thuốc. Hoặc uống với liều lượng ít để theo dõi.
   + Đang uống thuốc có biểu hiện tốt, chứng tỏ thận đang đi đến cân bằng, các bạn cứ tiếp tục uống. Nếu thấy từ từ giảm rồi chuyển qua biểu hiện xấu, tức là thận đang chuyển qua giai đoạn mất cân bằng, các bạn cũng cần gia giảm lại .      
                                        ===================================

                             CÁCH PHÂN BIỆT THẬN DƯƠNG - THẬN ÂM SUY.
Về mạch:
   Xét bộ mạch xích bên phải yếu hơn bộ xích bên trái, là thận dương hư tổn .
Về hình :
   Dương hư hình thể gầy, diện bộ bạc nhược hay là béo trắng mà trệ nệ.
   Âm suy hình thể gầy đen hay là lưỡng quyền và mép thường đỏ.
Về chứng bệnh :
   Dù là ở trên nóng giống nhau, nhưng ta phân biệt rằng khát mà không uống được nhiều là dương suy, khát mà uống nhiều là âm suy.
  Trên nóng dưới lạnh, trong người lạnh ngoài da nóng, đại tiện lỏng phân là dương suy.
  Nóng cả người, đại tiện táo kết là âm suy.

  Các triệu chứng thận dương suy:
- Lòng bàn chân lạnh.
- Viêm amidan, viêm họng, uống nước đá càng sưng.
- Nước tiểu trong như nước suối.
- Hay đi tiểu đêm.
- Nóng sốt bên ngoài mà sợ lạnh, trán nóng mà lòng bàn chân lạnh.( Trường hợp này người lớn hay trẻ em thường bị . Người lớn uống 10 viên bát vị, trẻ em uống 1 viên, chỉ 1 lần là giảm bớt đáng kể. Sau vài lần uống là ổn định. Nhiều trường hợp bị sốt cấp tính như vậy, khi đi bệnh viện, họ hạ sốt, sau đó đưa đi chạy thận. Thật là oan uổng. Nếu chúng ta biết xử trí sẽ tránh được nguy cơ chạy thận , lại rất đơn giản).                            
                                   --------------------------------------------------------

Chúc các bạn mau khỏi bệnh.
Lương Y : Phạm Trọng Sơn.
ĐT : 0909 658341

(84) 909 658 341
Mail : trongson1967@yahoo.com
Đc : 515/21, khu 1, ấp 2 , xã Tân Định, huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương, Việt Nam.
( Gần khu du lịch Đại Nam )
 
Phòng chẩn trị y học cổ truyền,
Chi hội chữ thập đỏ xã Tân định .
 
 

Các bạn có thể gọi đt để tư vấn thêm: 0909 658 341

Bạn nào theo hướng dẫn trên để chữa bệnh, hãy ghi tên tuổi, địa chỉ, số điện thoại, tình trạng bệnh cùng kinh nghiệm chữa của mình để mọi người học hỏi thêm. Chúng ta hãy tạo một diễn đàn, nơi những người bị bệnh thận có nơi để trao đổi thông tin. Các bạn ghi vào phần nhận xét. Cám ơn các bạn.
                                                   --------------------------------------------

SƠ LƯỢC LỊCH SỬ BÀI BÁT VỊ.
  

 Trước vua Vũ Đế nhà Hán bên Trung Hoa cầu làm thần tiên, uống nhiều thuốc đan sa, rồi phát sốt khát nước nhiều, tiểu tiện nhiều. Ông Trương Trọng Cảnh ( tên hiệu là Tràng Sa) chế ra phương thuốc này để chữa cho nhà vua được khỏe.
  Bài này để chữa chứng hỏa mệnh môn suy yếu, tướng hỏa ở hậu thận bên phải không đầy đủ, nên không sinh được tỳ , đến nổi tỳ vị yếu mà lạnh, người gầy, khí kém, không thiết ăn uống, đại tiện lỏng, rún và bụng hay đau, đêm hay đi tiểu tiện, hỏa kém đờm nhiều.
   Sách Tinh yếu có nói " Bài bát vị này, uống lâu thời người mạnh mà sinh con trai". Ông Trọng cảnh có nói : " người khí hư yếu mà có đờm uống bài bát vị để bổ thời trục được đờm, Chữa chứng nước dềnh lên thành đờm thời bài bát vị này là thánh dược"
  Các chứng bệnh phong, bệnh lao, cổ chướng, chứng cách , uống bài bát vị đều có thể khỏi.
  Nếu bỏ phụ tử, quế trong bài bát vị, sẽ thành bài lục vị, bổ thận âm.
  Bài lục vị chữa chứng tạng can ,tạng thận không đầy đủ, chân âm suy kém, tinh khô huyết kiệt, đau lưng mỏi chân,di tinh, tiện huyết, khát nhiều đi đái nhiều( tiểu đường), thổ huyết, răng lung lay, chữa chứng phát sốt của trẻ em, gót chân đau, lưỡi khô hay đau...
   Hải Thượng rất chú trọng 2 bài bát vị và lục vị.Ông thường nói 2 bài này là thánh dược, có công năng xoay chuyển tình thế. Ông thường xuyên dùng cho các bệnh nhân bệnh rất nặng, hiểm nghèo. Hễ dùng đến là có công hiệu tức thời. Ông nói, bệnh nhẹ thì chữa về khí huyết, bệnh nặng thì chữa về âm dương. Bệnh nặng mà chữa về khí huyết thì không có tác dụng. Ông nói âm dương là gốc của cơ thể, mọi bệnh đều có liên quan đến âm dương.
Tuổi thọ hay chết yểu đều nằm ở âm dương.
Trích " Hải Thượng y Tông Tâm lĩnh "
                              ===========================================

Một số bệnh nan y được Hải Thượng Lãn ông chữa trị 
                                     (Ghi trong bộ " Hải Thượng Y tôn tâm lĩnh")


1- Chứng bán thân bất toại.
   Một vị quan Tướng quốc họ Lý, vì dẹp giặc trải nhiều phong sương, thành bệnh cánh tay bên trái ngay ra mà đau, không với được lên đầu và sau lưng. các thầy thuốc đã dùng thuốc khu phong mà không công hiệu. Bệnh nhân đại tiện ra như viên đạn. Bộ mạch đại mà trì, hoãn, không có thần.Thế là khí ở trong hư yếu đã lâu, khí huyết không chu lưu đến chân tay mới thành ra chứng khô nửa người như kể ở trên.
   Tôi cho uống bài Bát vị  thêm ngưu tất, đỗ trọng. Mỗi lần uống 4 chỉ ( 1 chỉ = 1 đồng cân = 4 gram) với nước muối loãng, mà ăn cơm  đã lâu, thời dùng bài quy tỳ thêm ít quế chi (quế vỏ mỏng)và quế tâm(phần gỗ cây quế), rồi khí huyết sung túc mà mọi chứng khỏi hẳn.

2- Chứng chiêm bao lạ.
  Tước vương Uyển Bình gặp chứng nằm chiêm bao mang đồ nặng nhọc, mà tỉnh ra vẫn thấy mệt. Khi ngủ lại chiêm bao như trước. Như thế một đêm đến mấy mươi lần.. Thầy thuốc đã dùng thuốc bổ tâm an thần nhưng không có công hiệu.
  Người ngủ thời tâm thần tàng nạp về thận. Đó là thủy hỏa gặp nhau, âm dương làm xong công việc. Nay âm tạng tâm không đầy đủ, chỉ có hỏa bốc lên mà không tương giao với tạng thận, khí của tạng thận đã yếu, không đem lên để hợp với âm của tạng tâm, mà thiếu chức vụ bế tàng lại.
  Tôi nghĩ như vậy mới dùng bài bát vị hoàn thêm ngũ vị, ngưu tất và lấy đăng tâm(bấc đèn) với hạt sen sắc lấy nước để uống thuốc thời bệnh nhân được yên.

3- Chứng đi tả về sáng sớm.(Thần tả)
    Ông Kim Thiệu phải chứng đi cầu về sáng sớm. Mạch thời 2 bộ thốn, bộ quan đều nhược, trầm, và vô lực, hai bộ xích lại rất trầm. Tôi cho uống bài bát vị bỏ mẫu đơn, trạch tả, thêm phá cố chỉ, ngũ vị tử, thỏ ty tử làm thuốc hoàn. Sáng và chiều uống 4 chỉ (20gram) thời bệnh khỏi, mà nữa năm sau sanh được con trai. Cho nên sách " Tinh yếu" có nói: " Uống bài bát vị thời người mạnh và nhiều con trai".

4- Chứng sốt rét.
   Một người tú tài mắc phải chứng sốt rét. Lúc sốt thời lợm lòng đầy bụng, các thầy thuốc cho là vì đàm vì ăn mà dùng những vị thuốc cay và nóng, Nhưng không biết vị tú tài ấy vốn có chứng lục huyết, nên uống như thế thời huyết ra nhiều quá mà bất tỉnh nhân sự, mồ hôi lạnh mà đông như cúc áo, bốn chân tay cũng lạnh, mạch tỳ vị sắp tuyệt. Tôi mới cho uống hơn một lạng sâm(40gram), dù có tỉnh ra nhưng phát nấc không ngừng. Tôi mới dùng thuốc ôn bổ, rồi cho uống bát vị hoàn, xen với bài thập toàn đại bổ mà khỏi hẳn.

5- Chứng đi đái ra huyết.
   Người họ Lý đã 60 tuổi, phải chứng đái rắt đã 2 năm, có lúc đi dễ mà vội vàng, có lúc một giọt cũng không đi được mà bụng dưới đau như cắt ra, nước tiểu thời như mỡ hay ra huyết tím. Tôi xét mạch thời 2 bộ thốn hồng và đại, các bộ khác đều vô lực mà mạch tạng can tạng thận tệ hơn.Thế là tạng can để vợi đi, tạng thận để vít lại đều không giữ được chức vụ.
  Tôi mới cho uống bài bát vị, thêm mạch môn, thăng ma, hồng hoa và uống thêm nước sâm cho thanh khí thăng lên, trọc khí giáng xuống, ứ huyết tản đi, thời bệnh nhân đỡ dần. Sau tôi sắc bài sinh mạch để uống bát vị hoàn mà quá trưa uống bài quy tỳ gia giảm, thời bệnh nhân khỏi hẳn.

6- Cầu tự.
  Một người muộn có con. Mạch bộ xích bên phải vô lực, thế là thận dương kém, mạch bộ xích bên trái không trầm không thạch, thế là thận âm cũng kém. Tôi mới dùng bài bát vị hoàn cho uống. Nhưng  lại xét rằng, nếu huyết kém thì không sinh được tinh, mà tạng tâm chủ về huyết,( người không có con là bởi tạng tâm, người bạc tóc là bởi tạng thận), nên việc cầu tự không những phải bổ tạng thận mà còn phải bổ tạng tâm.
  Vì lẽ đó, mà tôi còn làm thuốc hoàn như sau để cho bệnh nhân uống:
-Hoàng kỳ : 160gram.
-Đương quy: 120gram.
-Táo nhân: 120 gram.
-Thục địa: 240gram.
-Bạch truật : 160gram.
-Viễn chí : 80gram.
-Mạch môn : 120gram.
-Bạch thược: 80gram.
-Đỗ trọng: 120gram.
-Tục đoạn: 120gram.
-Ngưu tất : 120gram.
   Trước hết lấy 1,2 kg hạt sen bỏ lõi và màng ở ngoài rồi sắc lấy nước bỏ bã, xong đem những vị thuốc kể trên cho vào nước ấy đun thành cao rồi cho vào những vị thuốc đã tán bột kê sau đây:
-Nhân sâm: 200gram.
-Phục linh: 120gram.
-Phục thần: 120gram.
   Sau đó, làm thành viên, mỗi viên nặng 16gram, lúc đi ngủ uống 1 viên với nước ấm, uống xen với bát vị hoàn. Như thế thời bệnh nhân được khỏi mà sau sinh con trai.

7- Chứng thạch thư.( Nhọt rắn như đá).(Theo mô tả tôi thấy giống bệnh ung thư má).
   Người già họ Triệu đã 70 tuổi, má bên trái sưng mà rắn, xuống đến cổ sau tai, một miếng rắn ấy không nóng không đỏ, khoảng hơn 2 tháng đã uống nhiều thuốc giải độc mà không có công hiệu, rồi trong miệng khạc ra mủ, răng cắn lại không muốn há ra, ăn ít, tinh thần kém, mạch thời hồng và đại mà không hư. Thế là tinh huyết kém lắm, âm hàn tụ lại mà sách gọi là chứng "thạch thư".
   Chứng ấy nếu không uống thuốc cho ấm lên thời không giải đi được, rồi thủng má xuyên đến cổ họng mà chết.
  Tôi dùng quế tán bột hòa với mỡ lợn và nghiền thêm hành củ để đắp đầy vào chỗ có khối u. Trong dùng bài sinh mạch để uống bát vị hoàn. Ăn cơm đã lâu, thời sắc những vị nhân sâm,hoàng kỳ, đương quy, bạch truật, bạch thược, phục linh, quế, gai bồ kết, kim ngân hoa lấy nước uống. Chỉ trong 5 hôm thời nhọt ấy nóng lên mà mềm ra, sưng cao lên và đã đỡ đau, bệnh nhân ăn được dễ chịu. Không đầy 2 tuần mà khỏi.
  Thế mới biết các chứng bệnh đều bởi khí, huyết, âm, dương. Mà chứng ung thư cũng phải nhờ khí huyết âm dương mới có thể tiêu đi hay vỡ đi được.

8- Chứng thổ đàm.
  Một người tráng niên vì khi làm quan không được vừa ý mà uất ức thành đàm, tức như "Nội kinh" đã nói:"Người trước quý sau hèn gọi là chứng thoát danh.". Chứng ấy khí huyết tiêu dần, tinh thần không mở mang được. Sáu bộ mạch huyền và tế sắc.. Ăn uống vào dạ dày thời hóa ra đàm phải thổ hết mới nằm yên được. Tân dịch ráo ở trong, cơ thể gầy dần, sợ rét, biếng ăn. Khí kém đi mà huyết không vận hành được ở kinh lạc mà không quang nhuận được ở bì phu. Khí kém ở ngoài nhiều thời sợ rét, khí ở trung châu yếu thời tạng tỳ không vận hóa được mà kém ăn.
  Tân dịch đã ngưng lại mà thành đàm. Đàm càng nhiều thời tân dịch càng kiệt.
  Tôi mới cho uống nhân sâm, đương quy, bạch truật, mạch môn, ngũ vị tử, trích thảo, quế chi(quế mỏng), ma hoàng, bạch thược, thêm gừng sống táo tàu sắc uống. Chỉ 2 chén là mạch đã có thần mà đàm nhẹ.
  Tôi cho uống tiếp bài thập toàn đại bổ vào lúc đói, mà quá trưa cho uống bài quy tỳ hay bài dưỡng vinh gia giảm để điều bổ tâm tỳ khí huyết mà bệnh ấy được khỏi hẳn.

9- Chứng tiểu tiện bế.
  Cháu gái ông già họ Vương mới 13 tuổi bị bệnh không đi đái được. Ông ngoại cho uống bài " Đạo xích", lúc đầu có công hiệu nhưng sau vít hẳn lại. Về mạch thời 6 bộ hồng và xác, ấn tay lâu không có thần. Tôi cho là thiếu chân âm(thận âm suy), mới cho uống bài bát vị, tăng thục địa, thêm mạch môn, ngũ vị tử, uống 2 chén thời đỡ, uống thêm mấy chén nữa là khỏi.
  Sau hơn một tháng, bệnh cũ tái phát, thêm chứng ngày đêm đau bụng, đầy và buồn, không ăn không ngủ, mồ hôi nhiều mà kinh sợ, khí lực mệt quá, nếu chỉ bổ thận âm mà không bổ khí để vận hành thì không thể được.
  Tôi nghĩ như vậy mới cho uống 2 thang như lần trước, quả nhiên bụng trên bụng dưới đầy buồn thêm lên. Tôi mới dùng 40gram nhân sâm, 12gram phụ tử sắc đặc cho uống ấm, một chốc từ ngực đến bụng dưới có tiếng sôi, rồi tiểu tiện đi luôn mấy lần rồi khỏi hẳn.

10- Chứng đái rắt.
  Một thiếu niên đã lao tâm lại sắc dục quá độ, rồi thành chứng đái rắt mà rỉ ra, bụng dưới vừa đầy vừa đau, mạch thời 2 bộ thốn trầm vi, bộ quan bên trái yếu, bộ quan bên phải hơi hoạt và sắc, 2 bộ xích thời huyền. Thế là khí tạng tâm tạng phế không đầy đủ mà hãm xuống tạng can tạng thận. Khí của tạng thận cũng không đầy đủ . Một bên không vợi đi được, một bên không giữ lại được. Khí ở trong đã yếu thời khí trong sạch không thăng lên, mà trung châu uất trệ nung nấu thành ra thấp nhiệt, thấm vào bàng quang mới thành ra đái rắt, đại tiện và tiểu tiện đau dắt dây như người có chứng chưng hà.
  Vì thế, buổi sáng tôi cho uống bài bát vị hợp với bài nhị diên, là những vị: thục địa, sơn thù, mẫu đơn, trạch tả, hoài sơn, phụ tử, phục linh, hoàng bá và đăng tâm với 20 hạt sen.
   Giữa trưa sau lúc ăn cơm, tôi cho uống bài bổ trung ích khí bỏ trần bì, sài hồ, thêm hoàng cầm, phòng phong. Sau khi uống nước thuốc cuối cùng của bài bổ trung, tôi bảo móc vào họng cho nôn ra, là để khiếu ở trên đã thông thời khiếu ở dưới cũng thông, quả nhiên công hiệu thấy ngay.

11-  Chứng bĩ khối. (Khối u lớn, cứng ở trong bụng).
   Đứa trẻ họ Hà 9 tuổi, bụng đầy chướng có hòn khối, người gầy mà mệt, tai ra mủ, mắt đỏ, chân răng chảy máu và thối lỡ, ho đờm đoản khí, không ngủ được, không ăn được mà chân đau. Về mạch có lúc huyền hồng mà có lực, có lúc huyền mà vô lực. Thế là uống nhiều thuốc tiêu tích mà âm dương đã kiệt, mạch như vậy là ở ngoài bồng lên ở trong không có gì.
   Ta nên biết chứng này bởi khí ở trong không vận hóa được, đến nổi đàm, thức ăn và khí tụ lại mà không tản đi, chứ không phải là có sắt đá gì ở trong bụng.
  Nếu ta đem vị thuốc mạnh để tiêu đi thời chỉ hại đến nguyên khí, vì thuốc gì cũng phải nhờ khí ở trung châu để vận hóa. Khi khí huyết suy yếu dù uống ba đậu, đại hoàng đến hàng cân cũng không ích gì.
  Vì thế tôi đem bài " Kim quỹ thần khí"(Bát vị gia thêm ngưu tất, sa tiền tử) làm thang sắc uống. Chỉ uống mấy chén là đầy chướng nhẹ đi. Rồi tôi sắc thêm nhân sâm hợp với thuốc mà uống.
  Sau đó, mỗi ngày về buổi sáng sắc bài sinh mạch để uống bát vị hoàn, buổi chiều lại uống bài kể trên, chỉ trong 2 tháng là hòn khối tiêu hết.

12- Chứng đau ngang lưng.Yêu thống)
   Hai quả thận bám vào xương sống, nên chứng này đều bởi tạng thận hư yếu. Âm ở trong tạng thận suy kém là hại về tinh huyết thì bổ âm,. Dương ở trong tạng thận suy kém là ở trong hàn thì nên bổ hỏa cho tạng thận, đều dùng thêm thuốc bổ tinh huyết. Có người đau lưng không cúi xuống và không đứng ngay lên được, thì uống bài" Gia truyền bổ thận" là công hiệu ngay.. Bài thuốc như sau:
- Thục địa: 40gr.
- Đỗ trọng: 12gr.
- Phá cố chỉ (sao vàng): 8gr.
- Ngũ vị tử: 40 hột.
- Hồ đào nhục: 12gr.
   Đó là chữa chứng thận suy yếu mà gặp phong hàn.
   Lại có chứng khí trệ mà đau lưng, hay là vì phong hàn, hoặc vì đội nặng quá sức, hoặc vì đi xa cố sức, ngồi lâu, làm lâu, thì phải tán hàn hành trệ như bài "Bổ trung ích khí", thêm những vị hợp với bệnh, vì phong thêm quế, vì hàn thêm phụ tử, vì trệ bội thăng ma.

13- Bệnh về tai.
  Tạng thận khai khiếu ra tai, cho nên tai điếc, tai ù, tai ngứa đều bởi tạng thận hư yếu. Vậy ta xét, nếu âm của tạng thận suy thì bổ thận âm, dương của tạng thận suy thì bổ thận dương, mà đều thêm ngũ vị tử, ngưu tất để liễm xuống.
  Nếu vì phong vì hỏa, mà trong tai đau lắm, hay là tai có mủ hoặc tai sưng lên, đều dùng thuốc trừ phong thanh hỏa. Nếu không công hiệu thời dùng bài lục vị thêm tri mẫu, hoàng bá, ngũ vị tử, ngưu tất, lại đem xác rắn( vỏ xác rắn lột da) đốt thành than nhưng đừng để cháy quá, rồi tán bột thổi vào trong tai.

14- Chứng đái rắt.
   Chứng này phân ra 5 thứ là: đi ra sỏi (sa lâm), đi đái ra huyết (huyết lâm), đi đái ra như mủ (cao lâm), đi đái như khí (khí lâm), còn về khi nhọc mệt mà đi đái luôn ( lao lâm).
  Chứng ấy tiểu tiện muốn đi luôn, nhưng lại không đi được mà rỉ ra đầm đìa mà lâu ngày vít lại, đau khổ muốn chết.
  Bệnh nhân chưa suy yếu lắm, nên chữa theo phép người xưa. Nếu hư yếu lắm, hay là tuổi già tinh kiệt, thì chỉ có bài " Kim quỹ thận khí hoàn" là thánh dược. ( Bài Bát vị thêm ngưu tất, sa tiền tử).

15- Chứng tiểu tiện không thông.

   Chứng này vì hàn nhiều mà nhiệt thì ít, nước tiểu từ tiểu tràng (ruột non) thấm vào bàng quang, muốn cho thông lợi dùng bài tứ linh để thấm mà trong bài ấy có vị nhục quế là thuốc ôn để đem đi.
  Chứng này vì nhiệt thì dùng thuốc cho mát đi, vì hàn thì dùng thuốc cho ấm, nhưng đều phải có vị thuốc để hành khí. Nếu nguyên khí hư yếu lắm thì dùng bài bát vị thêm mạch môn, ngũ vị tử, ngưu tất, sa tiền tử để đem khí xấu trở xuống.

16- Chứng đi đái nhiều hay mà đái mà không biết.(Đái dầm).
   Nội kinh nói: " Tạng phế chủ về tiết độ(đi tiểu), tức là đẩy nước xuống bàng quang, nhưng còn phải nhờ khí nóng của hạ tiêu, là vì tạng thận giữ về việc chứa lại, mà khai khiếu ra đại tiện". Cho nên đi đái nhiều phải trách cứ tạng thận, đi đái mà không biết phải trách cứ tạng tâm, chỉ có bài bát vị thêm nhiều vị ích trí, công hiệu hơn vị phúc bồn tử.

17. Chứng bạch trọc.( Đi tiểu trắng như nước gạo).
   Chứng này phần nhiều vì thấp nhiệt, hiện chứng đi đái luôn mà trắng như nước gạo. Bệnh còn nhẹ thì chọn dùng một trong những bài tứ linh, ngũ linh ( tứ linh thêm nhục quế), hay lục nhất hoàn. Còn bệnh nặng dùng bài lục vị thêm sa tiền, ngưu tất, hay là bài kim quỹ thận khí ( bát vị thêm ngưu tất, sa tiền tử).

18- Chứng di tinh, mộng tinh, hoạt tinh.
   Chứng này nếu là người khỏe hay là vì nghĩ đến sắc dục mà đến đêm di tinh thì không phải chữa.
   Nếu chiêm bao giao hợp với đàn bà mà di tinh, bệnh nhân người lại yếu thời phải chữa về tạng tâm, tạng thận và tạng can. Vì tạng tâm yếu cho nên chiêm bao, tạng can chủ vợi ra, tạng thận chủ giữ lại. Nay tạng can mạnh quá mà tạng thận lại yếu, chỉ vợi ra mà không giữ lại.
   Phép chữa, cần phải yên tinh thần cho tạng tâm, dẹp tạng can. giúp tạng thận.
   Nhưng "Mộng" mà "di tinh" là nhẹ, có người không chiêm bao mà tự di tinh , thời gọi là hoạt tinh hay thoát tinh, như vậy thời hư yếu hơn.
  Phép chữa, chỉ có bài bát vị thêm phá cố chỉ và bài quy tỳ bỏ mộc hương, thêm ngũ vị tử. Hai bài uống xen với nhau mới được công hiệu.
 Lại chữa chứng này còn để ý cho thần kinh được yên tĩnh, vì dây thần kinh và gân là một, mà ngọc hành (hòn dái) là gân cái ( tâm gân). Không hiểu lẽ ấy mà cứ dùng thuốc để vít lại thì có khi càng vít mà bệnh càng tăng lên.
 
19- Chứng tiêu khát .( Bệnh tiểu đường)
   Chứng này khát nhiều mà đi đái rất nhiều. Là một trong 3 chứng tam tiêu. Nguyên nhân bởi hỏa làm tiêu háo chân âm. Nhưng là thực hỏa thời nên vợi nhẹ đi, còn hỏa kém mà bốc lên gọi là hư hỏa thời lại phải bổ. Chứng này bệnh nặng có người uống nước 1 phần đi đái 2 phần.
  Nếu là thận âm suy mà hỏa bốc lên thời uống bài lục vị. Nếu chân hỏa kém mà hỏa bốc lên thời uống bài bát vị thêm sữa người, cao ban long, cao thục địa, cao ngũ vị tử.
20- Chứng không phải trúng phong mà tự nhiên ngã ra. ( Đột quỵ).
   Người phó đội ở thuyền “ Hãn Tiền” cơ Trung Hãn đồn Vĩnh Doanh, vì lấy bùn để trát nhà mà chợt ngã lăn ra, chân tay cứng , người ngay như gỗ mà nóng như lửa châm, đờm kéo lên như kéo cưa, nhắm mắt cấm khẩu, đại tiểu tiện đều bí, miệng không há ra,con ngươi không trông thấy, như thế đã hai ngày hai đêm. Thầy thuốc đã 4 , 5 vị, hoặc cho uống nam tinh và bán hạ để giáng đờm, hoặc cho uống long não, xạ hương để thông khiếu, đều cho là chứng phong mà đều dùng thuốc phong dược, rồi bệnh nhân lại thêm mắt trông thẳng và há mồm, nhị tiện són ra, chân tay giá lạnh, người không chuyển động được.
    Người nhà mời thầy thuốc họ Lâm đến chữa, cũng bảo là chứng chết, rồi từ chối không chữa, nên người nhà đã khóc lóc.
    Bấy giờ tôi nhân việc đi qua, gặp người thầy thuốc họ Lâm, tôi hỏi rằng tiên sinh đi đâu? Thầy thuốc họ Lâm kể chứng bệnh của người phó đội và nói thêm: “ Bệnh nhân này vốn người thuần cẩn, đối với tôi rất hậu”. Tôi mới kéo thầy họ Lâm cùng lại để xem bệnh. Tôi thấy bệnh nhân mắt tuy không trông thấy mà con ngươi còn chuyển động, chân tay tuy lạnh mà thân thể còn hơi nóng. Bệnh nhân thấy tôi ứa nước mắt mà nhìn. Tôi xem mạch xung dương và mạch thái khê thời còn có lực có thần. Tôi hỏi kỹ đầu đuôi biết là phần nhiều bởi uống nhầm thuốc. Vả lại chứng cảm phong hay chứng kèm thêm về sau cũng bởi âm và dương hai bên đều hư tổn mà bản khí của ngũ tạng tự thành bệnh, làm hại từ trong mà chân tay giá lạnh. Như vậy dù có chứng như là trúng phong cũng là giả tượng mà thôi. Hết thảy chứng nội thương thời khí nghịch lên, khí dư ra là hỏa, hỏa vượng thời sinh phong, phong đi thời động, mà thủy dền lên là đờm. Cho nên là khí là hỏa là đờm kỳ thực là chỉ có một nguồn gốc, mà bất ngoại ở tạng can với tạng thận. Vì rằng âm huyết của tạng can không đầy đủ là bởi thủy của tạng thận suy kém, thủy là mẹ cho huyết, huyết không dưỡng được gân thời ngã lăn ra, thủy không chế được hỏa thời bốc lên. Cho nên ông Đông Viên chủ ở khí là nói về gốc, ông Hà Giang, ông Đan Khê chủ ở hỏa và đờm là nói về ngọn. Người khéo chữa bệnh thời trong khi bệnh nhân nguy cấp nên lấy bổ dương để làm thiết yếu, nếu chứng nguy đã nhẹ thời lại bồi bổ lấy chân âm. Huống chi phong bởi hỏa mà ra, mà hỏa bốc là ở chân âm thiếu. Thầy thuốc trước không biết lẽ ấy mà dùng nhiều phong dược, thời chân huyết càng ráo, nên bệnh nhân trước còn nhẹ mà sau lại nặng hơn. Vậy ta nên lấy tạng thận làm gốc để lập mệnh. Tỳ và vị là máy sinh hóa của hậu thiên, bệnh nhân này mạch xung dương và thái khê hãy còn thì có thể sống được.
     Tôi nghĩ như vậy, rồi bảo vợ con bệnh nhân, chứng này tuy ngặt nhưng tôi hết sức có thể cứu lại được. Vả lại thân phụ bệnh nhân có quen biết với tôi, thời tôi không nỡ từ chối. Vợ con người ấy đều sụp lạy để cầu cứu. Bây giờ thầy thuốc họ Lâm mới cười mà rằng: “ Tôn ông chữa được bệnh này thật là thần nhân, tôi sẽ cầm đèn theo sau mà không dám làm thuốc nữa”. Tôi nghe thầy thuốc họ Lâm nói khích như vậy, thời lòng cứu người đến mười phần, mà bụng giận người cũng lên đến mười phần, nên tôi cũng bảo rằng:” Tôi chữa bệnh này nếu không toàn hoạt thề không làm thuốc nữa”.
     Xong, tôi bốc một chén to Sâm phụ thang, uống hết hai nước từ trước giờ ngọ đến sau giờ mùi, bệnh nhân bốn tay chân được ấm như cũ, miệng đã ngậm lại nữa chừng, lưỡi đã co duổi, duy ở rốn nóng bốc như lửa. Tôi mừng mà rằng chân dương đã hồi có thể không việc gì, mới bốc một thang “bát vị” thật to, gia ngưu tất, đỗ trọng, ngũ vị uống liền 3 chén thời bệnh nhân mắt mở nhắm được, mình chuyển động được, bụng biết đói, ngoài da biết đau ngứa, đại tiểu tiện gần điều hòa, nhưng bốn chân tay chưa co duỗi được, tiếng nói chưa rõ. Tôi lại bốc bài “Bát vị” bỏ phụ tử là thiên về âm huyết, mà thêm vị ngưu tất, đỗ trọng, đương quy, bạch thược, lộc nhung làm thành thuốc hoàn uống với nước gừng loãng, rồi cho uống xen với bài “quy tỳ” bỏ mộc hương, thêm quế tâm. Điều bổ như thế hơn một tháng mọi chứng khỏi hết mà tinh thần khí lực lại hơn lúc chưa ốm.

     Thế là tôi có công hồi sinh, duy có thầy thuốc họ Lâm từ sau có gặp tôi là xấu hổ mà tôi cũng không nhắc đến. Thế mới biết chữa bệnh phải tìm đến căn bản. Người không biết thấy chợt ngã ra thời chỉ ngay là chứng phong. Biết đâu là cây kia gốc rễ bền chặt, thời dù có gió mạnh cũng không thể lay chuyển được.

21- Đàn bà góa bệnh uất . ( âm hư, đờm dãi, ọe khan, máy mắt, vướng cuống họng ).
     Thị Đính người làng Bào Thượng huyện Tình Diễm, chồng chết chưa đầy năm thì thường suốt ngày thương khóc. Một hôm nhân đi nắng lội bùn ở ngoài ruộng rồi ghê rét váng đầu hoa mắt, một chốc lại tỉnh , đến chiều lại mệt nhọc, tinh thần mụ đi. Đi nằm một chốc khắp người ra mồ hôi. Đến quá trưa hôm sau phát ra một quái bệnh, mắt máy luôn, miệng khát luôn, cuống họng nuốt luôn như có vật gì vướng mà không tiêu xuống được, mắt đỏ, đờm dãi ngược lên, khò khè như tiếng gà, chân tay lay động như người múa nhảy, ra mồ hôi như mưa, khoảng nữa giờ lại tỉnh như trước, đến chiều lại nổi cơn như vậy.
     Nhưng bấy giờ thêm chứng ọe khan, may mà chưa tìm được thầy thuốc, vì chỗ ấy ở gần núi ít có người biết thuốc. Người không biết thấy thị chân tay lay động, đều cho là chứng phong, thấy thị lội bùn gặp mưa mà phát bệnh đều cho là chứng thử, chứng thấp. Thị đến xin thuốc ở tôi, tôi xem mạch thời bộ xích bên trái vô lực , mà 2 bộ quan hồng và sác, tôi biết là chân thủy thiếu mà can mộc vượng lấn đến tỳ thổ, nên chân tay lay động là tựa phong hỏa, nuốt luôn khạc luôn là bệnh về tỳ tạng. Nội kinh có nói:”Bệnh của tạng tỳ thời hay nuốt”, Còn chứng máy mắt là can và thận đều yếu. Nội kinh nói: “Bệnh ở tạng thận và tạng can phải máy mắt”. Lại nói: “ Thủy ở tạng thận suy kém, thời âm ở tạng can cũng khô ráo mà máy mắt”. Chứng ọe khan là hư hỏa bốc lên. Vệ khí hư mà ra mồ hôi. Vả lại mồ hôi là tân dịch của tạng tâm, là tên riêng của huyết, thận thủy đã kém không chế được hỏa, cho nên tướng hỏa và quân hỏa bức bách tân dịch ở tạng tâm và ráo chân huyết ở tạng tâm mà ra mồ hôi nhiều. Chứng nhiều đờm tuy bởi tạng tỳ mà tạng thận là gốc sinh ra đờm, nhưng đờm ở tạng tỳ thời đặc mà vàng mà đờm ở tạng phế thời trong mà ít. Bệnh nhân này bởi thủy suy kém không sinh ra huyết, mà thủy dền lên thành ra đờm. Khí dư ra là hỏa, hỏa bốc lên thành đờm thăng lên, phát sốt về buổi chiều, thì âm hỏa đã rõ, thế là các chứng hiện ra.
     Tìm đến căn bản thời thị này mới góa chồng sầu uất. Nội kinh nói:” Lo nghĩ thời hại tạng tỳ, thương xót thời hại tạng phế”. Đã uất thời kinh lạc không thông, âm dương ngăn cách. Vậy phải căn cứ vào hư tổn, dù có khí thử thấp cũng là vì hư yếu mà lấn vào.
     Tôi luận bệnh xong, đem bài “Nhị trần thang” cho uống trước lúc trưa, thời thổ đờm hơn một bát, quá trưa cho uống ngay bài “lục vị thang” một chén to, thêm mạch môn, ngũ vị, ngưu tất, đỗ trọng, đến trống canh hai uống xong nước thứ ba, rồi cả đêm ngủ yên, hôm sau lại uống một thang như trước, hôm sau nữa cho uống luôn ba chén bài “quy tỳ thang”, thêm vị mẫu đơn, sơn chi, thời mọi chứng khỏi hết mà tinh thần hơn trước.

 

     Thế là lúc trước, tôi dùng bài “nhị trần” để thổ đờm khai uất, rồi đến bài “lục vị” tuấn bổ chân âm để cân với chân hỏa, và bổ thận tức là bổ can, sau nữa dùng bài “quy tỳ” để bổ âm huyết cho tâm, can, tỳ, thêm vị mẫu đơn để thanh hỏa, vị sơn chi để tả uất hỏa. Vả lại bài “quy tỳ’ để bổ tỳ thổ, khiến cho kinh túc quyết âm(Can) sinh ra kinh thủ thiếu âm(Tâm), kinh thủ thiếu âm sinh ra kinh túc dương minh (vị). Đó là tôi theo khuôn phép người đời xưa, thấy chứng đờm không chữa đờm, thấy chứng phong không chữa phong, mà phong thấp và đờm không biết đi đâu hết cả. Càng rõ chứng hư tổn là nguyên nhân của bách bệnh, mà bổ cho chứng hư tổn  là thiết yếu để chữa bệnh.
 

Còn tiếp...

                               ================================================

PHẦN GIẢI ĐÁP THẮC MẮC.
 
                                (Tổng hợp từ thư, điện thoại, trao đổi trực tiếp...)
(Huyết áp chỉ là một yếu tố trong nhiều yếu tố để xác định sự chênh lệch 2 thận âm dương, Nếu chỉ căn cứ vào huyết áp sẽ dễ dẫn đến sai lầm)
Hỏi: Một người ở Ban mê Thuột. Chạy thận 3lần/tuần :
     Tôi uống thuốc 3 thang bát vị, thấy người khỏe, sau đó có người thầy thuốc quen  thêm vào hà thủ ô, đan sâm, bạch thược..., khi uống xong thấy mệt mỏi, tràn dịch màn phổi...Tại sao vậy.
Trả lời : Thang bát vị có tính nóng, làm tăng tiểu tiện, chống phù. Khi thêm những vị thuốc lạnh vào sẽ làm người lạnh nên bị những hiện tượng trên. Cách sử trí là uống lại bài bát vị và kèm bài tứ linh sẽ hết.

Hỏi: Một người ở Cà Mau. Lọc màng bụng.
     Người cháu rất nóng, huyết áp cao, thích uống nước lạnh, cháu phải uống thuốc như thế nào?
Trả lời:  Tình trạng như trên do thận âm suy hơn thận dương, cháu cần uống 10 viên lục vị, ngày 2 lần. Sau vài ngày thấy mát thì uống 5 viên bát vị + 5 viên lục vị, sau đó thì tùy theo thận âm, thận dương như thế nào mà gia giảm cho cân đối.

Hỏi: Một người ở tỉnh Hưng Yên. Chạy thận 3lần/tuần.
      Tôi uống 10 viên bát vị+ 15 viên lục vị, sau 1 tuần bị hạ huyết áp, người mệt mỏi, lúc trước huyết áp tôi 180 . Tôi phải làm sao?
Trả lời : Do bổ thận âm nhiều  nên bị hạ huyết áp người mệt mỏi, trước mắt nên uống 10 viên bát vị, ngày 2 lần, khi huyết áp lên thì uống 10 viên bát vị+ 5 viên lục vị, Uống kèm thêm tứ linh để bổ tỳ vị và lợi tiểu.
    Kết quả: sau 3 ngày uống bát vị, huyết áp lên 170.

Hỏi : (Người trên) Tôi uống thuốc như trên thì huyết áp bình thường, nhưng người mệt kém ăn, lúc trước tôi ăn uống được. Tôi phải làm sao?
Trả lời : Do bổ thận lâu ngày, tỳ vị sẽ kém làm người mệt kém ăn, Bạn nên ngưng thuốc bổ thận vài ngày mà thay vào đó uống thuốc bổ tỳ vị cho người khỏe lại,như bài "Tứ quân", sau đó hãy uống thuốc bổ thận tiếp.

Hỏi: Một người ở Hà Nội. Chạy thận 3 lần/tuần.
     Người tôi nóng, huyết áp cao, tôi phải uống thuốc như thế nào.
Trả lời: Bạn bị thận âm suy hơn thận dương, bạn uống 5 viên bát vị+ 10 viên lục vị, ngày 2 lần.

Hỏi :(người trên)  Tôi đã uống như trên được 1 tuần, thấy 2 chân bị phù, trong người lạnh, đi cầu nhiều, ngoài da thì nóng, tôi phải làm sao?
Trả lời: Bạn uống thời gian dài như vậy nên thận âm tốt hơn thận dương, mới có hiện tượng trên. Cách khắc phục là bạn phải bổ thận dương cho ngang bằng với thận âm. Lúc đó thận ấm lên, trong người sẽ ấm, sẽ kéo hơi nóng từ ngoài da vào trong, khi đó da bạn sẽ mát lại. Bạn cần uống 10 viên bát vị, ngày 2 lần, Sau 1-2 hoặc 3 ngày , tùy theo cơ thể của bạn, bạn thấy trở lại bình thường thì uống bổ cả âm . Lúc đó bạn uống 10 viên bát vị+ 5 viên lục vị.

Hỏi: Một người ở Đà Lạt. Chạy thận 3 lần/tuần.
      Tôi uống 3 thang bát vị, do cao huyết áp nên tôi thêm thục địa 10gram, bớt quế, thấy người lạnh, hơi bị phù, tôi phải làm sao?, Tôi còn bị đau bao tử vài năm nay .
Trả lời: Thang bát vị mà bạn uống bổ thận âm nhiều hơn , chỉ cần uống 1-2 thang là đủ, sau đó giảm thục địa, thêm quế để bổ dương nhiều hơn . Do bổ thận âm tốt hơn thận dương nên mới có hiện tượng trên.
     Bạn nên mua bát vị hoàn và lục vị hoàn mà uống. Thuốc này nhà máy làm sẵn thành viên , lại rất chuẩn mực, Khi uống thuốc này tính từng viên, nên khi gia giảm sẽ rất thuận tiện và chính xác. Bởi vì khi chữa thận, vấn đề quan trọng nhất lại là bổ sao cho cân bằng 2 thận, lúc đó mới không có những vấn đề khác xảy ra.
    Khi ra tiệm cắt thuốc thành thang, người bán thường cân cẩu thả, liều lượng không chuẩn mực, làm ảnh hưởng đến việc trị bệnh. Tôi cũng từng bị nên có kinh nghiệm.
   Để khắc phục, bạn chỉ bổ thận dương thôi, uống 10 viên bát vị, ngày 2 lần , uống kèm tứ linh để lợi tiểu , bạn sẽ hết phù . Sau đó bạn uống kèm thêm lục vị .
  Để trị đau bao tử , bạn mua thuốc "Thái điền" uống . Thuốc này trị bao tử rất hay.

Hỏi: một người ở Hố Nai. Chạy thận 3 lần/tuần.
     Cháu người thấy lạnh, hạ huyết áp khi lọc máu , còn không lọc máu thì huyết áp bình thường, đi tiểu ít, người bị vẩy nến nhiều, cháu uống thuốc như thế nào?
Trả lời: Cháu uống bát vị hoàn, 5 viên, ngày 2 lần. Khi thấy người khỏe hơn thì uống 10 viên bát vị+ 5 viên lục vị.
      Kết quả: sau khi uống hết 1 lọ bát vị hoàn, người khỏe hơn, khi chạy thận bác sỹ đã giảm một số thuốc. Bệnh vẩy nến giảm đáng kể.

Hỏi : một bạn hỏi :
      Chào thày Phạm Trọng,
Liên quan đến vấn đề lọc thận nhân tạo, theo tôi hiểu, đa số những bệnh nhân hiện đang dùng máy lọc thận để lọc các độc tố ra khỏi cơ thể do thận suy không lọc được; tuy nhiên những bệnh nhân này vẫn đi tiểu bình thường, nghĩa là thận vẫn làm việc nhưng không đầy đủ.
Trong số đó, có một số bệnh nhân phải lọc thận để lấy cả độc tố lẫn nước ra khỏi cơ thể vì cả hai thận đều bị đóng lại, hoàn toàn không làm việc.
Câu hỏi được đặt ra là: Với những bệnh nhân thuộc loại thứ hai này, các bài Lục Vị và Bát Vị có thể giúp được gì không? Và nếu cần điều chỉnh thì phải thêm bớt những gì?
Thành thật cám ơn thày.
Bankyo . 
Trả lời :

     Nếu còn đi tiểu đựơc, thì còn nhẹ, khi bị bí tiểu hoàn toàn là tình trạng nặng. Gặp trường hợp này cần uống thêm bài tứ linh để tăng cường lợi tiểu . Các bài thuốc bổ sung tôi có ghi trong trang web của tôi .
    
Thân chào

 
Hỏi : Một bạn chạy thận 3 lần /tuần. Ở Mỹ .
     Kính chào thầy,

Nín cám ơn thầy đã trả lời tận tình. Hôm nay Nín thử mô tả chi tiết bịnh trạng của Nín để thầy có thể định bịnh.

1. Nín là nữ bịnh nhân, bắt đầu lọc thận vào ngày 7/30/2008. Trước khi lọc thận thì cơ thể rất mệt mỏi, lơ đãng, kém ăn, tay chân và đôi khi môi lưỡi bị tê, thỉnh thoảng đau lưng nhưng không nhiều, tay chân không bị phù nề, tiểu tiện bình thường, huyết áp bình thường. Sau khi lọc thận một khoảng thời gian ngắn thì huyết áp dần lên cao, cơ thể vẫn mệt mỏi, lơ đãng, kém ăn, sút cân, tính tình dễ nổi nóng, dễ giận, nhưng vẫn tiểu tiện bình thường. Khoảng cuối tháng 3/2009, Nín lần đầu dùng đến bấm huyệt, lượng nước tiểu nhiều hơn, số lần tiểu ít hơn, ban đêm chỉ đi 1 lần vào buổi sáng, nhưng huyết áp vẫn tiếp tục lên cao. Thời gian này khi chạy thận không phải lấy nước ra. Vào cấp cứu vì các biến chứng gồm có huyết áp cao, cao Potassim, bị phù thủng do lượng Albumin trong máu xuống thấp tuy đã uống Protein cô đặc dành cho bịnh nhân thận, thân nhiệt xuống thấp đột ngột, và tràn dịch màng phổi, + viêm tai giữa.

2. Khoảng tháng 5/2009, khi huyết áp lên quá cao thì chức năng tiểu tiện hoàn toàn mất, Nín không còn tiểu tiện được nữa, bắt đầu từ thời gian này khi chạy thận Nín phải lấy nước ra, lưng bị đau thường xuyên hơn, cơ thể vẫn mệt mỏi, sút cân, đôi khi tim đập nhanh, huyết áp lên rất cao, thời điểm lên cao nhất là 225/131 là lúc thận hoàn toàn tê liệt và Nín mất luôn khả năng tiểu tiện

3. Đầu tháng 7/2009, Nín đổi bác sĩ mới, bác sĩ mới kiểm soát được huyết áp nên huyết áp trở về mức bình thường 120-130/75-85, cơ thể khoẻ dần ra, ít mệt mỏi, vẫn lơ đãng, bớt nổi nóng, không hay giận hờn, hay cười hơn, chắc cười hơi nhiều nên mặt mày lúc nào cũng tươi roi rói đến nỗi mấy cô y tá cứ ghẹo sao giống bịnh giả đò, hổng giống bịnh nhân thận chút nào , ăn uống ngon miệng, ăn khá nhiều, đói cũng khá lẹ, lên 3 kg trong vòng 1 năm, chỉ số Albumin trong máu từ 4.1 đến 4.6 như người bình thường dù trong năm này hoàn toàn không dùng đến Protein cô đặc dành cho bịnh nhân thận. Tuy nhiên lưng vẫn hay bị đau, tim bị mệt thở không nổi khi đi bộ dưới trời nắng nóng dù đi bộ trong khoảng ngắn. Trời không nóng vẫn có thể đi bộ khoảng trên dưới 1/2 dặm đường mà không thấy mệt. Trong khoảng thời gian 1 năm này không có biến chứng gì trầm trọng để phải vào cấp cứu.

4. Tháng 4/2010, dùng phương pháp xoa bóp chân thì có thể đi tiểu lại chút ít sau gần 1 năm hoàn toàn không, lúc này huyết áp bắt đầu lên lại chút ít phải bắt đầu tăng thuốc kiểm soát huyết áp. Tuy nhiên, Nín chỉ theo được 2 lần vì chi phí quá cao và lại quá xa, không đi lại được nên bỏ. Bỏ xoa bóp thì trở về như cũ, hoàn toàn không tiểu tiện.

5. Tháng 5/2010, bắt đầu theo chương trình thiền định cho đến nay. Sau khi theo phương pháp này thì tiểu tiện lại chút ít, ít hơn lúc xoa bóp bàn chân, và khi có khi không, lượng nước tiểu hầu như không đáng kể. Lưng vẫn bị đau, nhưng hơi thở điều hòa hơn, ít thở hắt.

6. Tháng 8/2010, bắt đầu dùng thêm thuốc Bắc, tuần đầu dùng thuốc của thầy E., không thay đổi gì chỉ có huyết áp lên cao chút đỉnh, tuần thứ nhì đổi qua uống thuốc của thầy H., bài lục vị, không biến chuyển chi, huyết áp lên cao, da dẻ đen xạm không biết có phải do thận không bài tiết ra nên bị ứ đọng nhất là hai mu bàn chân, da trở nên rất đen xạm. Tuần thứ tư trở lại thầy E., uống được 3 thang thì huyết áp lên quá cao, ở mức 210/115 phải ngưng thuốc. Trong khoảng thời gian uống thuốc Bắc cũng thỉnh thoảng tiểu tiện chút ít (chỉ vài giọt nhưng hay có cảm giác muốn đi tiểu khác với lúc trước không có cảm giác này) không khác gì so với lúc chưa uống mà chỉ dùng thiền định. Tuần thứ 5 bắt đầu theo thầy J. để châm, cứu, và xoa bóp. Thuốc thì vẫn dùng thuốc thầy E. sau khi thầy J. xem xét và giảm liều xuống 1/3. Huyết áp có hơi cao chút ít, không quá cao, lơ lửng ở mức 140-160/ 90-100.

7. Vào ngày 7 tháng 10 năm 2010, huyết áp đột ngột xuống thấp 75/55-60 sau khi lọc thận và uống thuốc huyết áp, bị chóng mặt, thận bị đau buốt sau mấy tiếng đồng hồ thì hết đau, huyết áp trở lên cao khoảng lúc 3 giờ chiều cùng ngày nhưng vẫn bị đau ngực (chest pain), tối cùng ngày cơn đau ngực tồi tệ thêm, qua sáng ngày 8 thì vào cấp cứu lần đầu sau hơn 1 năm yên ổn, nhưng sau khi xét nghiệm xem xét mọi thứ không có gì nghiêm trọng thì bác sĩ cho về, không nhập viện. Khoảng 1 tuần sau cơn đau ngực mới khỏi hẳn. Đây cũng là lần đầu huyết áp xuống thấp đột ngột.

8. Cơ thể của Nín từ trước đến nay dễ bị lạnh, khi trời lạnh thì hai tay và hai chân lạnh cóng như cầm nước đá; tuy nhiên, Nín lại hay có cảm giác khát nước và thích uống nước đá. Tuy ăn nhiều nhưng cơ thể lại bị thiếu máu, hay buồn ngủ, lúc nào cũng buồn ngủ, ngay cả trong sở làm, đôi khi cơn buồn ngủ kéo đến đột ngột không cưỡng lại được là ầm xuống bàn khò luôn . Thêm một điều khó hiểu là sau khi chạy thận thì da dẻ Nín trở nên đen xạm trông tối hù, qua ngày hôm sau là ngày không phải chạy thận thì da dẻ trông sáng hơn nhiều, không đen xạm, trở lại nước da nguyên thuỷ của Nín. Lúc trước Nín thường nghĩ rằng sau khi lọc thận thì nước da sẽ sáng hơn vì chất độc được lọc lấy ra phần nào, nhưng kết quả thì ngược lại. Quái đản không hiểu được thầy ạ.

9. Kết quả siêu âm thận đề ngày 6/30/2008:

* Kích thước thận phải: 9.3 X 4.1 X 3.5 cm
* Kích thước thận trái: 9.3 X 4.3 X 4.5 cm

10. Đông Y thì bảo gốc bịnh thận của Nín là ở gan yếu. Nín không bị viêm gan B hay C, nhưng lúc 8-9 tuổi có bị viêm gan A.

Nín cám ơn thầy đã giúp đỡ Nín.

Kính,

Nín   
Trả lời :
     Tôi sẽ giải thích thứ tự theo từng câu hỏi của bạn :
1- Trứơc khi chạy thận, thận dương suy hơn thận âm. Khi chạy thận làm thận âm suy hơn thận dương nên gây cao huyết áp. Tràn dịch màng phổi, thân nhiệt hạ lại chuyển qua thận dương suy hơn. 
2- Giai đoạn này, thận âm suy nặng hơn.
3- Giai đoạn này thận âm tốt lên.
4- Xoa bóp có tác dụng 1 ít lên thận dương.
5- Tình trạng có cải thiện.
6- Dùng thuốc thầy E bổ khí quá mạnh nên tăng huyết áp. Dùng thuốc thầy H bổ âm quá mạnh làm da đen xạm. Bởi vì khi bổ âm mạnh , khí huyết ngoài da sẽ di chuyển tập trung vào thận , nên da thiếu máu mà đen xạm lại. Nói chung 2 thầy dùng thuốc chưa phù hợp. 
7- Huyết áp xuống thấp đột ngột do trước đó uống nhiều thuốc bổ âm. 
8- Tay chân lạnh là do thiếu khí huyết vận hành ra chân tay, khát nước mà thích uống nước lạnh là thận âm suy hơn. 
Buồn ngủ là do khí suy yếu. dương suy yếu. Nói chung, giai đoạn này tình trạng của bạn tệ hơn nhiều. Cả âm, dương , khí , huyết đều suy yếu. Do trước đây bạn uống nhiều thuốc của các thầy mà không phù hợp với cơ thể bạn. 
Da đen khi lọc máu cũng như giải thích ở trên , vì khi lọc máu , bạn phải mất một lượng máu , làm thiếu máu ngoài da gây đen , sau 1 ngày cơ thể bạn tạo ra được một lượng máu thì da sáng trở lại.
9- Thận âm nhỏ hơn thận dương.
10 - Theo ngũ hành, thận là mẹ của gan , mẹ bệnh thì làm con bệnh theo. Thận bạn suy mới gây ra gan bệnh. Do đó , đôi lúc , gan suy nhưng người thầy thuốc xem xét nếu thấy cả thận suy thì chữa thận , khi thận tốt sẽ làm gan tốt theo. 
Còn phổi là mẹ của thận , phổi yếu làm suy thận . 
Ngoài ra còn nhiều yếu tố khác gây suy thận như viêm nhiễm họng , bàng quang , ăn thức ăn có nhiều độc tố , uống nhiều thuốc kháng sinh ,hút thuốc, khói bụi...


Hỏi : Bạn trên 
    Nín kính chào thầy và cám ơn thầy đã giải thích cặn kẽ. Hôm qua Nín đã quyết định bỏ uống thuốc của thầy E. Nín lấy tới 14 thang cho 2 tuần trước khi thầy E về Trung Quốc dự hội nghị, chắc có lẽ thầy J cũng tiếc tiền giùm Nín vì thuốc Bắc bên Mỹ khá đắt và bảo hiểm cũng không chi trả nên bảo uống và giảm liều. Nín còn khoảng 5-6 thang nữa nhưng thấy uống cũng chẳng nhúc nhích chi chỉ thấy huyết áp lên nên quyết định bỏ. Thứ Sáu tới này Nín sẽ nói lại những lời góp ý của thầy cho thầy J và nhờ thầy J cắt thuốc mới, Nín thử 2 tuần nữa xem sao, nếu không biến chuyển chi chắc phải nhờ người ở Việt Nam mua thuốc giùm. Nín muốn xem thử bên ni có thầy mô chữa lành bịnh này để còn viết lời giới thiệu cho các bịnh nhân khác nếu họ muốn tìm phương hướng mới trong điều trị. Bịnh này là một bịnh làm đau đầu chính phủ Mỹ luôn, trên 350 ngàn bịnh nhân đang lọc máu và trên 75 ngàn bịnh nhân đang chờ thay ghép thận. Tây Y thì bótay.com, chỉ có 2 giải pháp đó. 

Kính,

Nín
 
Trả lời:
     Chào bạn
    Thang lục vị nếu thêm phụ tử và quế thành thang bát vị, nếu đúng đó là thang lục vị thì bạn không cần phải bỏ , chỉ mua thêm phụ tử và quế thêm vào. thêm sa tiền tử và ngưu tất là đúng với thang thuốc tôi nêu. Chỉ e là thầy E không hốt đúng bài lục vị.
    Uống thuốc phải cần đúng bệnh mới khỏi ,nếu uống sai bệnh càng nặng thêm , đừng nên tiếc rẻ làm gì.
    Tôi khuyên bạn nên làm chủ thang thuốc mà bạn uống. Cần học hỏi thêm một số kiến thức về thuốc, coi như bạn cũng là một thầy thuốc, như thế bạn sẽ làm chủ vận mạng của mình. Các kiến thức cơ bản tôi đã hướng dẫn chi tiết và đơn giản dễ hiểu. Nếu có gì thắc mắc, bạn cứ hỏi , tôi sẽ giải đáp cặn kẽ.
     Nếu có hốt thuốc, bạn chú ý kỹ liều lượng phụ tử , quế và thục địa. Phụ tử và quế tính nóng, dùng bổ thận dương ( bổ hoả ) , thục địa tính mát , bổ thận âm. Còn các vị khác chỉ hổ trợ, bạn không cần quan tâm nhiều.
   Với liều lượng 3 gram phụ tử + 2 gram quế ( bổ dương) và 20 gram thục địa (bổ âm), bài thuốc có tính bổ dương nhiều hơn bổ âm .
    Để kiểm soát liều lượng này, bạn nói tiệm bán cân riêng thục địa 20 gram, quế 2 gram, phụ tử 3 gram gói ra các gói nhỏ riêng biệt, cân cẩn thận , còn các vị khác để chung 1 gói. khi nấu thuốc bạn hãy thêm vào. Như vậy tiệm thuốc không giám cân ẩu cho bạn. Mà theo đó bạn cũng kiểm tra được liều lượng của thuốc.Thường thì tiệm thuốc không hiểu vai trò quan trọng của liều lượng này nên thường cân rất ẩu, làm ảnh hưởng đến việc trị bệnh.
     Ban đầu, bạn nấu 1 thang uống , trong 2 ngày như hướng dẩn ở trên , sau đó xem xét trên cơ thể bạn biến đổi như thế nào , rồi tùy đó mà gia giảm ở thang thứ 2. Mỗi thang thuốc này tuy ít thuốc nhưng tác dụng rất mạnh , không thể uống đại trà được.
Nếu có gì thắc mắc, bạn nên mail cho tôi để tôi giải đáp.


Hỏi: Một bạn ở Đức , chạy thận 3 lần/tuần, chạy 6 tháng .
     Tôi huyết áp bình thường, tiểu bình thường, không bị phù,  ăn uống được. Tôi uống thuốc như thế nào?
Trả lời : Bạn uống 10 viên bát vị + 5 viên lục vị , ngày 2 lần , trước bữa ăn . Bổ thận dương nhiều hơn, như vậy thận mau phục hồi .

Hỏi : Một bạn ở Mỹ .
      Dạ trước khi uống thì huyết áp là 145/96, huyết áp của Nín hồi sau ni bị cao khi thận có dấu hiệu hơi hoạt động lại một chút.

Thôi rồi "Lượm" ui, tối ni sau khi Nín uống chén thuốc, Nín quậy 1/2 ly nước + 1 muỗng cà phê Tứ Vật + 1 muỗng cà phê Tứ Linh, uống mất tiêu hết vô bụng rồi thầy ơi. Hổng biết tối ni mấy thứ thuốc ni nó có oánh lộn nhau không nữa.  Nín cứ nghĩ uống Tứ Vật cho nó kiềm sự làm tăng huyết áp của Bát Vị

Ý là thầy bảo Nín uống Tứ Vật một thời gian trước, và trong thời gian này không uống Bát Vị?
Trả lời :
    Chào bạn

    Bạn uống Tứ Vật hôm nay, uống ít thôi, uống nhiều sẽ rất mệt. Ngày mai bạn uống Bát Vị, giảm một nữa để huyết áp tăng vừa phải. Bạn nói bây giờ thận có dấu hiệu hoạt động lại phải không?

    Bài Bát Vị thuốc đi vào thận, bài Tứ Vật bổ máu đi vào gan, bài Tứ Linh đi vào tỳ, nếu trộn chung thuốc đi tứ tung, không hiệu quả. Uống các loại thuốc cách nhau 1 tiếng.
    Tại sao không uống các loại khác chung với bát vị ?
    Trong ngũ tạng, thuốc đi vào thận khó nhất . Nếu lẫn các loại khác đi vào gan , hoặc tỳ , phổi, cuối cùng thuốc sẽ đi vào nơi dễ đi mà không vào thận . 
     Bài bát vị có 8 vị thuốc , mà 8 vị này đều có mục tiêu là thận . Phụ Tử tính nóng , mạnh bạo , không nơi nào mà không đến được , Quế tính nóng hổ trợ cho Phụ Tử . Thục Địa bổ thận , hướng dẫn Phụ Tử , Quế vào thận . Phục Linh dẫn khí xuống thận . Hoài Sơn bổ tỳ thận . Sơn Thù liểm khí cho thận . Mẫu đơn bì thông mạch máu . Trạch Tả lợi tiểu tống các chất độc trong thận ra ngoài. 8 vị này như một trận bát quái đồ , đồng loạt tấn công vào thận . Dù thận có kiên cố cách mấy cũng không chịu nổi .
    Khi thêm một vị thuốc khác , bổ máu chẳng hạn( như đương quy, bạch thược) đi về gan , cũng như hướng các vị trên về gan , làm giảm sức mạnh của bài bát vị . 
    Ông Trương Trọng Cảnh, một danh y thời nhà Hán , chế ra phương thuốc này để chữa bệnh nan y cho vua Vũ Đế , để lại tiếng thơm cho muôn đời sau .
Hải Thượng Lãn Ông nói bài bát vị như thần dược , có tác dụng cải tử hoàn sinh .
 
Hỏi : Một bạn ở Bình Phước . Suy thận độ 4, tiểu ít, Bác sĩ bệnh viện Chợ Rẫy báo chuẩn bị chạy thận.
    Em uống 10 viên bát vị+ 5 viên lục vị , ngày 2 lần và uống tứ linh được 3 ngày ,  thấy người khỏe hơn, đi tiểu có mùi khai hơn, huyết áp vẫn giữ ở160 , vậy em có cần gia giảm gì không ?
Trả lời:
     Em giữ mức uống như vậy, khi nào có triệu chứng xấu hãy gia giảm .
 
Hỏi:
Chào Thầy !
Tôi tên là Hùng ngụ tại TP.HCM. Tôi bị suy thận, bác sĩ chỉ định chạy thận cách đây 3 tháng nhưng vì hoàn cảnh gia đình tôi không thể chạy thận được. Hiện tại tôi đang uống thuốc "ích thuận vương". Tôi có thể uống các vị thuốc này được không? Xin thầy tư vấn cho cách sử dụng.
Trả lời: Chào bạn.
    Bạn nên sử dụng bát vị hoàn và lục vị hoàn, thuốc này là bài thuốc cổ truyền, bổ thận rất mạnh, giá lại rẻ.Mỗi hộp giá 45000đ, uống được 15 ngày.
 
Đây là thành phần của Ích thận vương. Giá 225000đ/hộp. Giá khá cao .
Thành phần:
 
Cao Đan Sâm 200mg
Cao Hoàng Kỳ 150mg
Trầm Hương 50mg
Cao Dành dành 150mg
Bạch phục linh 50mg
Cao Râu mèo 50mg
Cao Mã đề 25mg
Cao Linh chi đỏ 15mg
L - Carnitine fumarate 50mg
Co - Enzym Q10 5mg.
---------------------------
Nhận xét:
Trong các thành phần trên, tôi chỉ thấy vài loại thuốc bổ khí, bổ máu, lợi tiểu, còn 2 loại cuối ghi tiếng anh nên tôi không rõ lắm.
Trong thang này không có thành phần thuốc bổ thận. Chủ yếu để lợi tiểu. 

 
          Nếu uống " ích thận vương" nhiều, gây suy thận nặng hơn.
 
Hỏi: Một bạn ở Hà Nội, chạy thận 3 năm, bí tiểu 2 năm, chạy 3lần /tuần.
    Trước tôi uống bổ thận âm nhiều, bị phù chân, người lạnh , da nóng, mệt mỏi. Sau khi uống bát vị 20 viên/ngày, 6 muỗng cafe tứ linh/ngày, được một tuần, giờ thấy người hết phù, khỏe mạnh, da dẻ hồng hào, nhưng vẫn chưa đi tiểu được, tôi có cần gia giảm gì không ?
Trả lời : Bạn bị như trên là do trước đó bạn bổ thận âm nhiều, thận âm tốt hơn thận dương. Sau một tuần bổ thận dương, bạn khỏe lại. Nhưng chưa đi tiểu được là do bạn bí tiểu khá lâu rồi. Bạn cứ uống liều lượng như trên, đang có chiều hướng tốt. Khi nào có chiều hướng xấu, lúc đó đang mất cân bằng, bạn mới phải gia giảm lại.
 
Hỏi: Một bạn ở Mỹ . Kết quả sau khi uống 2 thang bát vị .
            Thưa thầy, Nín đã hiểu rồi, hôm nay sẽ đi hốt thuốc và nấu thuốc mới. Thầy cho Nín ngày mai đo huyết áp + nhịp tim theo toa mới vì trong 1 tuần Nín chỉ có 1 ngày Chủ Nhật để lo công việc nhà. Nín tuy bị bịnh nhưng chuyện sở và chuyện nhà đều phải lo cả vì nhà neo người.

Dạ Nín thấy người mỗi ngày ấm thêm một chút, đỡ hơn khi xưa rất nhiều, lúc nào cũng bị lạnh run. À, Nín quên báo với thầy trong những lần đi chữa trị tại một văn phòng thầy thuốc Đông Y bên ni, Nín luôn có phần xoa bóp (massage) vùng lưng, thì Nín được cho biết cơ bắp vùng thận phải có vẻ bị "xơ cứng" (tight) hơn bên trái. Và khi Nín được bấm các huyệt đạo về thận ở sau lưng thì các huyệt đạo bên phải gây đau đớn cho Nín hơn bên trái rất nhiều.

Thưa thầy, Nín vẫn chưa đi tiểu được nhiều, Nín đi rất ít nên sợ nước vô phổi, phù nề thì Nín không lo lắm tuy gây khó chịu cho Nín vì Nín phải chịu hầu như thường xuyên trong những ngày đi làm khi không còn đi tiểu được, ở nhà thì đỡ phù nề hơn. Mỗi lần lọc máu lượng nước phải lấy ra xê xích từ 1.8 lít đến 2.6 lít tùy theo số ngày cách khoảng. Tuy vậy, Nín biết là thận Nín đã hoạt động lại vì hôm qua Nín bảo cô Y Tá đừng cho Heparin - một thứ thuốc làm loãng máu để lọc thận - quá nhiều vì Nín sợ bị bầm tím thì cổ bảo lượng Hemoglobin trong máu Nín bây giờ khá cao tuy họ không tiêm vào Espogen - thứ thuốc giúp tạo Hemoglobin - nữa (trên 13.), đúng ra là mức bình thường, nhưng với bịnh nhân thận họ chỉ giữ ở mức 12 để tránh tình trạng máu đông khi lọc nên Nín biết thận đã hoạt động lại mới tạo được Hemoglobin. Ngày trước mỗi lần lọc các y tá phải tiêm vào một lượng Espogen để giúp giữ một mức Hemoglobin chấp nhận được để tránh tình trạng chóng mặt do thiếu máu cho Nín.
Trả lời:
        Uống 2 thang mà có kết quả vậy là tốt rồi. Bạn tiếp tục uống, theo dõi huyết áp, nhịp tim, các biểu hiện trên cơ thể.
 
Hỏi: Một bạn ở Mỹ Tho. Nam.
      Tôi mới chạy thận 2 lần, huyết áp cao 200, chạy thận nhưng chân phải vẫn bị phù, đau thắt lưng, người lạnh, tôi phải uống thuốc như thế nào?
Trả lời: Bạn bị thận dương suy, uống 10 viên bát vị, ngày 2 lần.
          Kết quả: sau 3 ngày uống thuốc, chân hết phù, huyết áp giảm.
 
Hỏi: Một bạn ở Mỹ . Kết quả sau khi uống 6 thang thuốc bát vị .
   Thưa thầy,

Nín đánh ra một số điểm chính trong 2 kết quả xét nghiệm của tháng trước và tháng này để thầy xem:


10/14/10 ---- 11/11/10
Hemoglobin 11.1--- 12.7 (Bình thường 12.0 - 16.0)
Phosphorus 3.0 --- 3.7 (Bình thường 2.5 - 5.0)
Potassium 5.4 --- 5.0 (Bình thường 3.5 - 5.1)
Albumin 4.1 --- 4.2 (Bình thường 3.5 - 5.7)
Creatine 9.64 --- 9.35 (Bình thường 0.60 - 1.20)
BUN 44 --- 64 (Bình thường 7 - 25) 
WBC 5.2 --- 8.2 (Bình thường 4.5 -11.0)
RBC 3.75 --- 4.19 (Bình thường 4.20 -5.4)
Theo Nín hiểu thì các chức năng của thận nay phần nào lấy lại được, nhưng vấn đề lọc chất cặn bã vẫn chưa vì Nín đi tiểu quá ít. Nín vẫn không hiểu tại sao thận lọc được Phosphorus, khi xưa Nín phải uống 3 viên Phoslo/ngày (một loại thuốc "binding" cuộn (?) Phosphorus lại để khi lọc máu có thể lọc ra), tháng trước Nín chỉ uống 2 viên/ngày, và tháng này chỉ có 1 viên/ngày + ăn các loại hạt (thực phẩm cao Phosphorus mà trước đây Nín tránh ăn) theo lời khuyên của cô điều dưỡng. Khả năng tạo máu của thận khá lên, tuy Nín mới mất 1 lượng máu hôm thứ Bảy tuần trước nhưng kết quả vẫn tốt hơn tháng trước.

Nín cám ơn thầy.
Trả lời: kết quả có tốt hơn, bạn uống tiếp bát vị để thận phục hồi thêm.
 
HỏiChị Nga ở Hà Nội. Đt: 01750080.(18/1/2011)
Tôi uống 10 bát vị + 5 lục vị, ngày 2 lần. Kết quả sau gần 2 tháng, sức khỏe tốt hơn, có thể đi được xe đạp vài cây số mà trước đây tôi không đi được, kích thước thận từ 50 lên 60, Protein nước tiểu từ +++ còn +, đi tiểu tốt, huyết áp từ 160 còn 120, chỉ có creatinine không thay đổi, vậy tôi có cần gia giảm thuốc không ?
Trả lờiThận của bạn như vậy đang nở ra và có dấu hiệu phục hồi, bạn tiếp tục uống như trên, kèm theo nhục quế và mật ong để giảm creatinine.
Hiện giờ chị Nga giảm chạy thận từ 3 lần còn 2 lần/tuần, sức khỏe vẫn tốt.(26/1/2011)


Hỏi: Bạn Quân,30 tuổi. DakNong, đt : 0979 848287. ( 14/4/2011)
   Tôi uống bát vị hoàn 10 viên+ lục vị hoàn 10 viên, quế mật ong, thuốc trị di tinh đến nay gần 1 tháng, đi xét nghiệm Creatinine giảm từ 200 còn 164, Ure giảm còn mức bình thường,thận trước đây bị teo nhỏ, bây giờ cũng bình thường. Huyết áp trước đây lúc cao lúc thấp, bây giờ cũng ổn định. Bây giờ sức khỏe rất tốt, tôi cần uống tiếp không.
Trả lời: Như vậy là thận bạn tốt gần mức bình thường, bạn uống tiếp như vậy một thời gian nữa.


Hỏi: Chị Sáu, ở Thuận Giao, Bình Dương. 0166 7521499. ( 8/6/2011)
  Chạy thận hơn 2 năm, 3 lần/tuần.
  Tôi uống bát vị 5 viên, ngày 2 lần, uống quế phụ lý trung thang, được hơn 1 tháng thấy trong người khỏe hơn nên tôi bớt chạy thận, còn 2 lần/tuần, đến nay đã hơn 1 tháng,thấy sức khỏe vẫn tốt, người không phù,đôi lúc thấy người hơi nóng,vậy tôi cần gia giảm gì không ?
Trả lời: Bạn tiếp tục uống như vậy, nếu thấy người nóng thì thêm 2 viên lục vị để bổ thêm thận âm.


Hỏi: Một bạn gửi email. Hà nội. 27/6/2011.
     Kinh gui Anh Pham Trong Son

Em la Hoi da dien thoai trao doi voi anh va uong thuoc anh gui .
Em xin anh tu van giup em de dieu tri benh duoc hieu qua anh nhe.
Em uong thuoc den nay da duoc hai thang roi, em uong 10 bat vi, 5 luc vi  cho mot lan .
Thang dau em uong hai lan vao buoi sang va buoi trua. Den ngay 2/6 benh vien xet nghiem thi cretinin cua em giam mot nua, tu 1600 xuong con 800. Ure trong mau thi giam khong nhieu chi tu 45 xuong 40 thoi. Tuy nhien em thay bai thuoc cua anh rat cong hieu va em cam nhan duoc tung ngay qua nhung bien doi cua co the nhu:
    1. Huyet ap rat on dinh, cam giac khoe nhu nguoi binh thuong, da khong con tai nhot.
  • Het ngua ( nguoi chay than hay ngua do nhieu doc to, va het viem da do than phuc hoi bai tiet tot.
  • Da da tiet ra mo hoi va tuyen dau tren da tiet cung tang lam da min va tron hon,
  • Toc cung khong bi kho va so sau moi lan chay than, toc muot va khoe, vuot toc rat tron, luong dau toc tang nen ro ret.
  • Nguoi khong con dau nhuc moi, ( luc truoc chua uong thuoc thi ngay nao vo em cung phai dung chan dan nen nguoi cho do moi, cang dan manh cang de chiu, nhung nay het roi.)
  • Than luc truoc khong co cam gia gi , thi tu khi uong thuoc vao em thay tuc trong than, sau thi thay dau trong vung than, ket hop voi ket qua xet nghiem lan dau em nghi than dang phuc hoi lai, bat dau hoat dong nen hay dau tuc. Tuy nhien than ben trai tuc nhieu hon than ben phai.
  • Con ve cam giac than tuc , sau hom em hoi anh khoang ngay 5/6, anh noi nhu the la than dang tien trien tot, hom do em ve va rat tu tin, em uong them mot lieu 10 bat vi 5 luc vi vao luc 11 gio dem. Sang hom sau em thuc day em thay than rat tuc. Em uong thu 2 ngay tiep cung vao khoang 10 va 11 gio dem thi em thay hien tuong van nhu vay, em cach ngay khong uong thi thay than khong tuc may, qua do em nhan thay uong them lieu thu ba vao luc 10 va 11 gio co ve tot , vi luc nay co the nghi ngoi thuoc se cong tot hon. Tu hom do den nay ngay em uong deu ba lan, tuy nhien em chu trong nhat vao luc 11 gio va cam thay nguoi cang ngay cang khoe anh a.
Khong  hieu em uong toi 30 vien bat vi va 15 vien luc vi co khoi qua lieu khong anh va co anh huong gi toi viec vhua bbenh khong ?
Hien nay em thay nguoi rat on, em van duy tri tap the duc deu dan, che do chay tot nen em cung rat khoe. Em cung rat kho xac dinh than nao suy hon than nao de dieu chinh thuoc, vay anh xem em nen dieu chinh nhu the nao cho hieu qua, anh cho em mot vai dau hieu de em nhan biet than nao suy hon than nao de dieu chinh cho hieu qua nhat. ( bai viet tren bao cua anh em doc rat ky cac dau hieu de chuan trÞ benh)
Em bi suy hon 4 nam , em uong tu linh ngay 4 lan, moi lan mot thia ca phe, duoc mot tuan roi nhung van chua di tieu nhieu anh a, the kinh nghiewm dieu tri cia anh thi can bao nhieu thoi gia den nuoc tieu quay tro lai, va co can bo sung bai thuoc loi tieu tang cuong nao khong a.
Hien nay em van chay tuan ba buoi mac du chi so doc to cretinin da thap, em du kien neu hom nay xet nghiem ma ket qua kha quan hon thi em se chay xuong 2 buoi mot tuan.
Em xin hoi anh, neu em chay than , le thuoc vao may thi viec di tieu tro lai co kho khan hon khong, vi may loc da lam thay chuc nang dao thai nuoc cua than va lam than luoi di. ?
Vay em nho anh tu van giup.
Chao anh.
Trả lờiChào em.
 
   Cám ơn em đã thông báo chi tiết về kinh nghiệm chữa trị của mình. Có lẽ anh cần đăng trên blog để mọi người học hỏi. Những kinh nghiệm đó sẽ giúp được rất nhiều người.
   Các vấn đề em hỏi, anh trả lời như sau:
1- Liều lượng thuốc sử dụng phụ thuộc vào tình trạng bệnh nặng nhẹ, tùy theo sức khỏe mỗi người. Ví dụ như đối với người này chỉ 5 viên là có tác dụng, còn đối với người khác không thấy thay đổi thì cần tăng lên, nếu cứ giữ nguyên 5 viên thì thời gian phục hồi rất lâu. Đối với người mới uống, chỉ nên uống 5 viên trước, theo dõi quá trình tiến triển và có thêm kinh nghiệm nhận biết thận nào suy, từ đó mới gia giảm cho phù hợp. Khi có kinh nghiệm thì tăng lên cho mau khỏi.
2- Trường hợp của em uống 10 bát vị+ 5 lục vị mà sức khỏe tốt hơn là đang phù hợp, em cứ giữ như vậy, em uống 3 lần 1 ngày càng tốt. Để mau đi tiểu, bài tứ linh em thêm ít quế mỏng, sẽ kích thích đi tiểu mạnh hơn, nhưng nếu thấy người nóng thì ngưng lại, bởi vì uống nóng quá có thể gây xuất huyết. Còn thời gian để đi tiểu được còn tùy thuộc vào bệnh nặng nhẹ, cách uống có phù hợp không. Có người 1 tuần đi được, có người 3 tháng vẫn chưa đi được.
3- Khi chạy thận, cơ thể đã bị biến đổi nên chữa trị cần lâu hơn, nếu người mới bị suy độ 4 , bác sỹ chỉ định chạy thận , nhưng chưa chạy mà uống thuốc thì thời gian phục hồi nhanh hơn. Có vài trường hợp anh hướng dẫn uống, chỉ 1-2 tháng mà thận phục hồi gần như hoàn toàn.
4- Em chưa đi tiểu được nhiều thì chưa nên giảm chạy thận, khi nào đi tiểu được, lúc đó thận có khả năng tự bài tiết được thì mới giảm được.
Sơn.


Hỏi: Email của 1 bạn ở CH Sec Gửi.(3/11) ( Mô tả tình trạng bệnh và quá trình uống thuốc)
   Thua bac SON em la nguoi toi qua da goi dien cho bac tu ch sec, nghe theo loi bac tu van em da goi dien cho nguoi nha o VN mua thuoc gui sang.thuoc gom bat vi hoan va luc vi hoan, ngoai ra con co phu tu ly trung thang uong them.em muonhoi la, nhu bac co noi kha nang em bi suy than duong,vay thi truoc mat se dung 10 v bat vi -ngay 2 lan va uong them phu tu lý trung thang de huyet ap giam bot roi theo doi co the ta se tinh tiep.vi trong luc con cho thuoc nen em xin tom tat lai mot so so luoc ve benh cua em de bac giup em chan tri dung benh de tu do dua ra cach dieu tri hieu qua nhat.  
     Em bi suy than tu cuoi nam 2008. luc phat hien chi so creatinin la 220 va toi nay chi so nay da la 420.ure la xe dich trong khoang tu 18 -23 .hien tai uong 3 loai thuoc tay de dieu tri giam huyet ap.nhung tinh den thoi diem nay huyet ap van o the kiem soat duoc.tu 170,180/120,130.bac si tay y co noi rang sap toi se phai loc mau.nha minh goi la chay than nhan tao .gia dinh em rat buon va tuyet vong.vi cac con em con rat nho va lai sinh song noi dat khach que nguoi , khong biet cac chau se dua dam vao ai  .May sao em doc duoc bai bao cua bac va chung em hy vong rat nhieu vao cach chua nay  cua bac. .  truoc kia luc chua phat hien ra benh em uong rat nhieu nuoc va chi thich uong nuoc lanh.ngay tieu it nhung dem tieu nhieu.mieng hay kho va dang.gio sau hon 2 nam chua benh thi khong thay khat nuoc nhieu nhu truoc nhung bac si sau nhung lan kham dinh ky thuong nhac nho uong nhieu nuoc hon nua vi may do luong nuoc trong co the phan anh luon thieu nuoc.va sau moi lan dinh ky thu mau deu cho thay ket qua than xau dan di.nguoi em luc nao cung thay gai gai va dac biet chiu ret rat kem.troi hoi lanh la chan tay lanh te  cung  nhu dong bang.di dai tien  luon trong tinh trang  roi loan.co khi mot chuoi ngay khong di dai tien bung am ach kho chiu nhung co the ngay sau day la vai ngay dai tien di phan long.thuc an hoac thoi tiet rat de gay anh huong den van de nay. chang han em chi can an ot cay hoac hat tieu lap tuc mai may ngay tao bon hoac em chi can uong sua hoi nhieu la lap tuc bi tao thao duoi ngay .noi chung phai het suc giu gin ,ke ca voi thoi tiet chi so y mac lanh chut xiu la cam lanh ve di dai tien nhu thao voi nuoc ngay,mac du truoc day dang trong tinh trang muon dai tien ma khong the di noi  . con ve ngu thi mat ngu ve dem.rat kho ngu, nhung khoang thoi gian tu 4 hay 5 h sang den 10h trua thi ngu ngon nhat  . nguoi em nhu chiec dong ho trai chieu khien moi sinh hoat dao lon het ca.chot lai bay gio neu em nhan duoc thuoc em se uong theo chi dan tren cua bac va sau do co the chuyen bien the nao  em se bao cao ngay voi bac.em co the dung nuoc ngam thuoc phu tu ly trung thang de uong cung bat vi hoan khong hay phai uong cach nhau ra. nhan duoc email cua em bac tra loi gium em nhe. xin cam on bac rat nhieu .chuc bac mot ngay moi tot dep.
(4/11)
Bac Son a.em muon hoi tiep la hien tai em dang uong rat nhieu loai thuoc tay. Cu the la:
  3 loai ha huyet ap 
  1 loai giup thai bot axit uric ra khoi co the do chuc nang than kem khong lam duoc
    1 loai ngay 3 lan, moi lan 3 v giup trung  hoa luong axit con dong lai trong co the
    1 loai thuoc bo  mau(sat)
  cach 1 ngay uong 1 v vitamin D
Vay bay gio uong them bai thuoc cua bac lieu co anh huong gi khong? hay la thuoc ta uong cach thuoc tay 2 tieng la duoc (nhu trong tai lieu bac viet). em cu muon hoi lai cho can than vi hien tai em dang dung qua nhieu thuoc tay.em biet uong nhieu nhu vay se khong tot cho than ti nao nhung neu khong uong thi khong duoc .hy vong sap toi khi em dung thuoc dong y benh tinh  ma do em se giam dan thuoc tay . Cau mong moi su tot dep se den voi em. Kinh chao bac. em- Tuyet
 (9/11)
Bac Son oi ,ngay mai la em nhan duoc thuoc roi. mot nguoi ban tu VN sang se cam ho thuoc . tam thoi se chi co 3 loai thuoc ma bac dan.bat vi ,luc vi va phu tu ly trung thang.em da doc ky trang web cua bac va da hieu ky nhung gi bac muon truyen dat . hien gio kha nang em suy than duong nhieu hon nen truoc mat se uong 10v bat vi -ngay 2 lan .sau day roi lieu gia giam sau .cac vi de lam thang phu tu ly trung thang goi rieng tung loai nen se che thanh  may bai de nho sau nay can den con co  dung 

   Bac Son a, may hom nay em om qua. dau tien la bi cum .ben nay dang co dich. hat hoi lien tuc, nguoi em binh thuong chiu ret da kem nay nhiem cum nguoi ret run het ca len . em so chang dam dung thuoc tay vi trong ngay da phai dung qua nhieu loai thuoc roi. than da teo top lai con phai vat lon voi bao nhieu loai thuoc nhu the em so se khong chiu noi. em  se de ngu hon chi uong chut ruou ngam toi thay moi nguoi noi de tang suc de  khang co the va  phu hop voi nguoi co huyet ap cao nhu em..co dung khong bac. 2 dem hom truoc ho nhieu qua rat het ca co va nguc . khong chop mat duoc em mo mang ra tim bai chua ho .bai thi noi xoa dau nong vao gan ban (chan em rat lanh).qua that la chan am len rat de chiu. nhung ho van nhieu .em lai lam tiep bai mat ong ho nong roi tron voi bot que de ngam . Nguc voi co co am len, de chiu hon. nhung moi lam duoc 2 lan thi theo doi huyet ap hang ngay co thay doi gi khong (em rat so huyet ap len cao nua vi hien tai da qua cao -170-180/110-120). nhung nhip tim bao la 100, (binh thuong chi la xung quanh 70). may ma huyet ap khong tang them nua. luc nay em lai che bai chua ho la: mot chut ruou wisky mot chut mat ong cho vao lo vi song quay may giay roi bo ra vat 1 vai giot chanh vao , khoang deu len roi uong.vi cua no rat thom ngon de uong. nhu si ro. em uong tiep 1 ngay 1 dem. ket qua khong an thua gi ca vi co le em hay dung thuoc tay chua benh qua nen gio thuoc ta khong nham nho gi phai khong bac .sang nay khong chiu noi nua em phai di bac si kham , bac si cho khang sinh roi . nhung bac bac si bao em suy than nang nen khong muon cho lieu cao so than khong chiu duoc. tinh hinh khong biet the nao .em thay nguc thi do rat hon roi nhung co thi van rat. co bung thi dau kinh khung vi ho dai ngay qua. bay gio  moi lan em ho con son tieu ra quan -bac co cach chua ho nao hay bac chi cho em voi. sap toi co nguoi quen tu VN sang em lai dan nguoi nha gui sang cho nhung vi thuoc nao can mua thi bac bao giup em nhe
. cam on bac nhieu. chac ho nhieu the nay phai doi do ho thi moi uong bat vi chua than. chu khong thi met lam voi lai thoi gian uong thuoc tay  ca ngay da kin roi .nhieu luc em thuc su thay  buon nhung em khong chiu bo tay voi benh tat dau bac a .phai chien dau voi no den khi nao minh thang no thi thoi bac nhi. .dong luc cua em la 2 dua con cua em day bac a khong de gi ma em bo cuoc.bac giup em voi nhe . .Chuc bac ngay cang thanh cong nhieu hon trong cong viec cuu nguoi . cuu nhan loai va doi dao suc khoe  -em Tuyet-CH Sec
( 18/11/2011)
   Bac Son oi, huyet ap cua em van cao bac a. hom truoc tinh hinh da theo chieu huong tot the roi ma gio lai khong giu duoc.
Hom qua em con bi di ngoai nua bac a. khong thay dau bung ,chi thay nguoi day bung , o hoi lien tuc .ve nha em co di ngoai 2 lan ,1 lan vao buoi toi va 1 lan vao sang nay, ca 2 lan di phan deu  long nhu di te de.em dinh rang gao va nuong gung  ham uong nhung khong thay di them nen thoi .sang nay em chi uong bat vi ma khong uong phu tu ly trung thang nua. Thu nhat em muon cat han con ho , thu 2 em so uong cai do no tong nhieu dom theo duong ruot  nen moi sinh ra day bung va di ngoai..chieu toi nay em do huyet ap thay cao qua nen sau khi uong 10v bat vi 1h thi em lai uong phu tu ly trung thang roi. cong nhan la uong cai do vao chi 1 luc sau la thay nguoi am len rat nhanh va de chiu . truoc  khi uong bat vi va phu tu HA cua em la 170/115. Sau khi uong 2 thu do HA xuong 1 chut la155/105. nhung ghet cai la ho va cu phai xi mui lien tuc . nhat la khi dat lung nam xuong la con ho cu dung minh day. Bay gio theo bac em phai dieu tri theo huong nao .Thay doi, can chinh nhu the nao de phu hop voi benh cua em. neu phai mua cac vi thuoc bac de sac uong hay gui thuoc gi tu VN sang thi bac huong dan giup em voi de em con tinh toan gui cho nhanh. HA cu cao the nay em sot ruot lam. hom truoc BS ben nay ho co cho em 1 loai thuoc tay de uong them (vi no la loai thu 4 ), (hien tai ngay nao em cung phai uong 3 loai  de ha HA ma van khong ngung tang). the nen em da quyet dinh  khong uong them no nua .bang moi cach em se theo cach chua cua bac thoi. Voi em thuoc tay nhu the la qua du roi. Vi thuc te qua  gan 3 nam chay chua, benh tinh da khong giu duoc ma di kham dinh ky lan nao cung xau di. Den noi bay gio cu moi lan den ngay den tai kham em cu thay lo lo nhu sap sua den toa nghe  quan toa tuyen an mac du biet minh khong pham loi. Ngay 1/12 nay em lai co hen tai kham roi.mai em se goi dien cho bac, bac giup em nghien cuu xem, voi em bay gio uong thuoc the nao thi phu hop nhat nhe. Em rat hy vong va tin tuong nhieu o bac .Cam on bac nhieu nhieu nhieu ....rat rat nhieu
(28/11) 
   Bac Son a, hien tai em van dang uong phu tu ly trung thang (uong duoc 17 ngay) roi. Hom qua va hom nay uong thu lai bat vi nhung thay van khong on. vi sau khi uong phu tu do huyet ap dang tu 160/105 thi ha xuong 135/95 nhung sau khi uong bat vi khoang 2h do HA lai thay la 160/110. 

 ( 2/12/2011).
   Bac Son oi, hom nay em vua di kham dinh ky ve. Nhin chung cac chi so thi khong thay doi gi nhieu. Duy nhat co 2 chi so thay doi lai la 2 chi so ma minh dang quan tam nhat. Do la URE va CREATININ. Cach day 2 thang cac chi so do la :
    URE-23,4 (muc cho phep la 2,6 - 6,7)
    CREATININ-422(muc cho phep la 55 - 105)
  Thang nay URE ha xuong 17,2 , CREATININ ha xuong 307
  Tuy la moi thu van chua the noi  rang than hoat  dong tot  , nhung su dao thai doc to ra khoi co the nhu vay it nhieu cung cho minh thay rang su can thiep cua bai thuoc  phu tu ly trung thang bac cho la rat co hieu qua  trong giai doan nay, dieu ma tay y khong lam duoc. Buoc dau  nhu vay la mung qua roi bac nhi? Vi muc tieu la chua than ma thuoc de chua than chua sang den noi,phu tu ly trung thang thi lai het, 2 hom nay em khong co gi uong HA lai tang vot. Tam thoi em lai dung tam thuoc tay. De giai quyet tan goc van de la phuc hoi than thi em dang doi den cuoi tuan thuoc sang den noi thi se uong luon. Em mong rang moi thu se dien ra suon se .Chuc bac mot ngay moi tran day nang luong  va dem duoc nhieu niem tin den cho moi nguoi ,moi nha.
Em-minhtuyet,CH Sec.
Trả lời: Kết quả vậy là tốt, bạn duy trì uống thêm.
==============================================================
 
Một số kinh nghiệm trong điều trị suy thận mãn.
 
Qua thời gian theo dõi sự phục hồi thận của nhiều bạn, tôi có rút ra được một số kinh nghiệm , tôi truyền đạt lại để các bạn nắm nhằm áp dụng cho mau khỏi:


1- Cần bổ tỳ vị: nhiều bạn chỉ lo uống bát vị hoàn, lục vị hoàn để phục hồi thận mà không chú ý đến bổ tỳ vị, đến nổi tỳ vị ngày càng suy yếu. Khi tỳ vị yếu cũng gây nhiều biến chứng nguy hiểm như suy thận. Có thể dẫn đến suy nhược cơ thể, ăn không được, chân tay mỏi mệt, mất sức, có trường hợp dẫn đến tăng cao huyết áp mà uống thuốc tây cũng không hạ được, hoặc có thể gây hạ huyết áp khiến tình trạng nguy hiểm. Do đó các bạn cần uống thuốc bổ tỳ vị xen kẽ trong ngày song song với thuốc bổ thận. Tôi theo dõi thấy bạn nào uống thuốc bổ tỳ vị thì sự đào thải creatinin và ure nhanh hơn là chỉ uống thuốc bổ thận. Các bài thuốc bổ tỳ vị có tác dụng mạnh là bài " phụ tử lý trung thang" và bài " Quế phụ lý trung thang".


2- Các bài thuốc có tính nóng giúp đào thải nhanh creatinin và ure: các bài thuốc có tính nóng giúp đào thải nhanh creatinin và ure như bài " Thanh kim đạo khí" " phụ tử lý trung thang", bài" Quế phụ lý trung thang", bài "bát vị", bài  "Nhục quế và mật ong". Ngược lại các bài thuốc bổ âm, có tính mát lại làm tăng creatinin như bài "lục vị", bài " tứ vật".


3- Cần bổ tỳ vị trước, sau đó mới bổ thận: Một số bạn tỳ vị suy yếu hơn thận, do đó lại cần bổ tỳ vị trước. Khi tỳ vị đã mạnh mới bổ xen kẽ với thận. Như vậy cơ thể mới ổn.


4- Cần uống bài bát vị rất mạnh: một số bạn người rất lạnh, lạnh tới trong xương, như vậy là cả tỳ vị, mệnh môn hỏa, thận dương đang rất suy. Nếu uống "bát vị hoàn" của công ty OPC sẽ không đủ sức (Loại này chỉ có tác dụng bổ thận dương trung bình, lượng phụ tử và nhục quế là 4gr, lượng thục địa là 20gr), làm bệnh trầm trọng hơn, hoặc có bạn uống rất lâu hàng tháng mà người không nóng nổi, hoặc càng uống càng thấy lạnh. Như vậy bạn phải làm bài bát vị rất mạnh như tôi hướng dẫn đầu trang. Tức là tăng gấp đôi, thậm chí gấp ba lượng phụ tử và nhục quế thì mới có khả năng phụ hồi thận dương được. Ngoài ra còn phải uống cả "nhục quế và mật ong" bài "phụ tử lý trung thang", bài " thanh kim đạo khí" thêm mới có kết quả tốt.

5- Cần uống bài " Thanh kim đạo khí": Trường hợp suy thận cấp, hàm lượng creatinin quá cao, bác sỹ chỉ định chạy thận, cần uống bài thanh kim đạo khí kết hợp với bát vị hoàn, nếu suy thận âm uống với lục vị hoàn. Bài thanh kim đạo khí có tác dụng hạ huyết áp, lợi tiểu, giảm creatinin khá nhanh. Nhiều trường hợp tôi áp dụng sau đó không cần chạy thận nữa.

Phạm Trọng Sơn
23/05/2013

Nguồn: https://tuvan-chuabenh.blogspot.com/

< Trở lại