Chào các bạn đang chạy thận nhân tạo.
Theo báo cáo của hội nghị thận nhân tạo 2009, Việt Nam hiện có khoảng 6 triệu người bị suy thận, trong đó có gần một trăm ngàn người bị nặng phải chạy thận nhân tạo. Quả là con số khủng khiếp.
Tôi nhận thấy các thầy thuốc đông y hiện tại ít biết áp dụng các nguyên lý chữa bệnh của Hải Thượng, nên chữa bệnh thường không hiệu quả, làm người bệnh quay lưng với nền y học dân tộc , mà chạy theo tây y.
Nay với lòng không vụ lợi, chỉ muốn giúp đỡ những hoàn cảnh khó khăn, Tôi đăng bài thuốc chữa bệnh thận tốt nhất và các bài thuốc quý giá khác được trích trong sách " Hải Thượng y tông tâm lĩnh " mà tôi áp dụng thành công. Tôi cũng tìm cách đăng bài trên nhiều báo điện tử để nhiều người có thể tiếp cận được. Mong những ai vô tình đọc được bài này hãy giới thiệu cho những người đang chạy thận nhân tạo, hoặc có thể coppy thành tờ rơi để phân phát, đó là công đức rất lớn mà các bạn đem lại cho họ.
Tôi mong muốn tài liệu này giúp đỡ trên 6 triệu người Việt Nam đang bị suy thận, có thể chữa trị lành bệnh.
Ngoài ra nó còn giúp cho mọi người hiểu nguyên tắc phương pháp trong việc điều trị bệnh thận cho đúng. Phòng bệnh suy thận bằng cách thỉnh thoảng uống thuốc, giúp cũng cố thận không bị suy yếu.
Tình trạng thức ăn rau cỏ bị nhiễm độc thuốc trừ sâu, trái cây trung quốc tẩm hóa chất bảo quản, sữa nhiễm Melamin, thức uống đóng chai , rau câu pha trộn hóa chất DHEP, lạm dụng thuốc kháng sinh của tây y... cũng là nguyên nhân lớn dẫn đến suy thận. Vấn đề này ta không thể tránh khỏi, nhìn vào đâu cũng thấy toàn hóa chất độc hại xung quanh. Cơ thể cứ nhiễm chất độc từ từ, tới ngày nào đó đủ nhiều sẽ bộc phát gây suy thận. Vì vậy hãy bảo vệ thận giống như phòng cháy hơn chữa cháy.
Qua thời gian hướng dẫn ( Từ 7/2010 đến 7/2011) có người đã khỏi suy thận và nhiều người đang giảm bệnh, chứng tỏ phương pháp này có tính ưu việt đặc biệt.
Mỗi nhà nên in 1 tập tài liệu để tham khảo khi cần thiết, bởi ngoài trị suy thận, còn ứng dụng để điều trị nhiều bệnh nan y khác nhau như: viêm gan siêu vi B, suy tim, bại liệt, tiểu đường...
Lương y Phạm Trọng Sơn.
Bổ sung thêm : ngưu tất : 4g, sa tiền tử: 4g, mạch môn: 4g, ngũ vị tử(tẩm mật): 20 hột , để lợi tiểu , hạ huyết áp. ( 4 Vị thuốc).
(Nhục quế là loại vỏ dầy, ít cay, cạo bỏ lớp vỏ mỏng. Nếu uống quế mỏng , cay nhiều, dễ gây xuất huyết bao tử)
Thục địa: bổ thận âm, bổ máu . Phụ tử, Nhục quế: tính rất nóng, bổ thận dương, bổ mệnh môn hỏa. Ngưu tất, sa tiền tử: lợi tiểu. Các vị khác hổ trợ tăng tác dụng cho thuốc.
( Phụ tử có tác dụng rất mạnh, rất nóng, không kinh mạch nào trong cơ thể mà không tới được, nhưng có độc tố, chỉ được sử dụng tối đa 8gr trong 1 thang thuốc , nhưng nếu không sử dụng thì không thể phục hồi thận dương được).
Bài này có tác dụng bổ thận âm, thận dương, và lợi tiểu, tăng bài tiết các chất độc trong cơ thể ra ngoài, lưu thông các mạch máu nuôi thận, phục hồi lại thận.(với liều lượng trên, bổ dương nhiều hơn bổ âm một chút ).
- Nếu thận âm quá suy: Bổ mạnh thận âm bằng cách tăng thục địa gấp đôi.
- Chỉ hoàn toàn bổ thận âm: bài bát vị bỏ phụ tử và nhục quế, trở thành bài lục vị.
- Nếu bí tiểu: tăng ngưu tất, sa tiền tử gấp đôi.
- Nếu tỳ vị yếu : tăng hoài sơn gấp đôi.
- Nếu huyết áp thấp: chỉ dùng bài bát vị ( 8 vị thuốc, không thêm 4 vị còn lại), đồng thời sắc nước nhân sâm đặc mà uống kèm. Khi sắc xong bài bát vị, thêm nước nhân sâm vào uống chung.
Nhân sâm có tính bổ khí, tính thăng, nên làm tăng huyết áp.
Kiêng kỵ: Khi người bị nóng sốt, bị cao huyết áp, nếu uống nhân sâm làm phát sốt cao hơn, gây nguy hiểm.
(Cân chính xác liều lượng 3 vị : phụ tử, nhục quế, thục địa. Nếu cân sai có thể gây nguy hiểm.)
Chú ý quan trọng:
Nếu gia giảm đúng với tình trạng, bệnh mau chóng khỏi, nếu sai thì không hiệu quả, nếu nghịch lại thì gây nguy hiểm.
Bị cao huyết áp do suy thận, nếu gia giảm đúng thì giảm huyết áp, nếu sai thì không thay đổi, nếu nghịch thì huyết áp càng tăng.
Thận âm hư gây cao huyết áp, nhưng thận dương hư cũng gây cao huyết áp, hoặc các nguyên nhân khác . Do đó, không nên căn cứ vào huyết áp để xác định sự chênh lệch giữa 2 thận.
Nếu bạn chưa biết về thuốc, không nên tự ý sử dụng. Bởi vì có tác dụng mạnh sẽ mau khỏi bệnh, nhưng nếu dùng sai gây nguy hiểm. Các bạn nên sử dụng "Bát vị hoàn" và "Lục vị hoàn" tôi giới thiệu ở dưới, sẽ an toàn hơn.
Cách sắc thuốc và uống:
Do thuốc có tác dụng rất mạnh và nóng, không nên uống nhiều một lần.
Sau khi uống, bạn sẽ thấy vùng thận sau lưng nóng lên, hoặc đau, nếu sờ vào vùng thận sau lưng sẽ thấy ấm rõ rệt, đó là dấu hiệu thuốc đang tác dụng hồi phục lại thận. Bạn sẽ đi tiểu nhiều hơn, nước tiểu rất khai và có thêm mùi thúi, đó là thận đang bài tiết các chất độc trong thận mà làm tắc nghẽn mạch máu nuôi thận. Khi các chất độc này được bài tiết ra ngoài, những mạch máu nuôi thận sẽ được phuc hồi, do đó thận sẽ tốt lại bình thường.
Sau khi uống vài thang, bạn cảm thấy cơ thể khỏe hơn, lúc này bạn có thể giảm chạy thận từ từ.
1 tuần còn 2 lần, rồi 1 lần. Bạn tiếp tục uống vài thang nữa, rồi sau đó bỏ hẳn. Trong thời gian này, bạn theo dõi kỹ xem có vấn đề gì không. Nếu bỏ hẳn chạy thận mà cơ thể vẫn bình thường, có nghĩa là bạn đã khỏi hẳn. Vậy xin chúc mừng bạn.
Lưu ý:
- Nếu tỳ vị suy yếu quá, thể hiện ăn uống kém, tay chân mỏi, người mệt, đau bao tử, tim đập nhanh, hồi hộp, cao huyết áp do tỳ yếu, cần uống bài phụ tử lý trung thang để tỳ vị tốt, sau đó mới uống kèm bài bát vị. Theo kinh nghiệm thực tế, thường xuyên uống bài này để giữ sức khỏe tốt vì có tác dụng như thuốc tăng lực, giúp mau lành bệnh. Nếu chỉ uống bài bát vị thì tỳ vị ngày càng yếu, hiệu quả sẽ thấp
- Nếu người quá lạnh, cần uống bột nhục quế + mật ong một thời gian cho người ấm lên, sau đó mới uống bài bát vị.
Một số bài thuốc cần hỗ trợ thêm:
Nhân sâm lát 10 g, bạch truật :10 g, bạch phục linh: 5g , cam thảo : 2 g. Nghiền thành bột để uống. Dạng bột uống mỗi ngày 4g-8g.
Để tăng huyết áp nhanh, thêm hoàng kỳ : 10g
- Tứ linh: lợi tiểu và bổ thêm khí tỳ vị . Bạch truật 10g, phục linh 10g, trư linh 10g( hoặc thay bằng sa tiền tử), trạch tả 10g. Nghiền thành bột để uống. Dạng bột uống mỗi ngày 4g- 8g. (Nếu người lạnh thêm 4 g quế mỏng. Quế mỏng lợi tiểu tốt hơn nhục quế)
Đang bị suy tim, người phù, thêm bột nhục quế và mật ong vào uống.
- Bài Lục nhất: Chữa sốt, tiểu tiện đỏ, tan sỏi thận, bàng quang. Hoạt thạch(bột talc): 6gram, cam thảo: 1gram. Tán bột uống với nước ấm. Mỗi lần 4 gram.
- Hổ phách lợi tiểu: Trị tiểu tiện nhỏ giọt. Hổ phách nghiền bột: 4gram, hành tím: 5 củ, nấu lấy nước cho bột hổ phách vào uống.
- Từ thạch hoàn: Trị cao lâm, nước tiểu dính như cao: Từ thạch (nung lửa, nhúng vào dấm 37 lần), Nhục thung dung (tẩm rượu, thái ra, sấy), Trạch tả, Hoạt thạch , 4 vị đều 40g. Tán nhuyễn, trộn với mật làm thành viên, to bằng hạt ngô đồng. Mỗi lần uống 30 viên với rượu ấm (Từ Thạch Hoàn – Thánh Tế Tổng Lục).
- Thuốc lợi tiểu thông lâm, trị các chứng phù, viêm đường tiết niệu, viêm thận:
+Trạch tả 10g, Xa tiền thảo 10g, Trư linh 10g, Thạch vỹ 10g, Mộc thông 6g, Bạch mao căn 15g, sắc nước uống.
+Trạch tả, Bạch phục linh, Trư linh, Xa tiền tử đều 12g, sắc nước uống. Trị viêm cầu thận cấp.
+Trạch tả, Bạch truật đều 10g, Cúc hoa 12g, sắc uống trị viêm thận mạn, váng đầu.
- Tứ vật Bổ huyết cho gan, mát gan . Thục địa 10g, đương quy 10g, bạch thược 5g, xuyên khung 3g . Nghiền thành bột, mỗi ngày 4g-8g.
Trị bệnh viêm gan siêu vi B. Bài tứ vật thêm vài loại thuốc giải độc như: phòng phong: 4gr, tần giao:4gr.
Cách đây 3 năm tôi có trị cho một thanh niên gần 30 tuổi mắc bệnh này, người nóng da sậm, sau khi uống 5 thang thì hết bệnh, người mát lại, da sáng lên.
Trị đi cầu táo bón ra ít máu do thiếu máu, người nóng. Bài tứ vật thêm nhục thung dung: 10gr.
Thường uống vài thang là khỏi.
Nếu uống bài tứ vật mà người mệt kém ăn thì uống xen kẽ bài tứ quân
- Quy tỳ: Bổ máu cho cả gan, tỳ, tim, kèm theo bổ khí. Nhân sâm lát 10g, hoàng kỳ 10g, bạch truật 10g, đương quy 10g, cam thảo 4g, phục thần 10g, viễn chí 10g, táo nhân 10g, long nhãn 10g, mộc hương 4g, thêm 3 lát gừng, 3 quả táo tàu.( Nếu nghiền bột thì bỏ long nhãn, gừng, táo tàu cho dễ nghiền)
Nghiền thành bột, mỗi ngày uống 4g-8g hoặc sắc uống ấm.
(Táo nhân nếu sao đen trị bệnh mất ngủ , để sống trị bệnh ngủ nhiều, tùy theo mà sử dụng thích hợp)
(Nếu muốn bổ tim nhiều hơn bổ tỳ, bỏ mộc hương, thêm hạt sen: 10g )
(1 muỗng cafe thuốc = 4 gram).
Bài này trị bệnh sưng lỡ môi miệng, nhiệt miệng lâu năm rất hay, thông thường chỉ uống vài thang là khỏi.
Các bệnh ho ra máu, nôn ra máu hoặc đi cầu ra máu, uống vào đều khỏi.
- Nước gạo rang -gừng nướng . Bổ khí tỳ vị , làm ấm bao tử. Trị bệnh tiêu chảy rất nhanh, thường chỉ 1-2 lần uống là khỏi, lại đơn giản.
Gạo: 1 nắm, rang vàng đậm. Gừng : 3 lát, nướng cháy đen ngoài vỏ. Cho vào ly , chế nước sôi ngâm như pha trà.
- Quế-mật ong: Bổ tỳ dương, mệnh môn hỏa. Trị kém ăn, người lạnh, da sạm đen, suy tim. Bột nhục quế: 1 muỗng cafe, mật ong: 2 muỗng cafe. Hòa nước ấm uống.
Vào mùa đông giá rét, hoặc những người sống vùng băng giá, nên uống bài này để giữ ấm cho cơ thể, tránh bị đột quỵ do quá lạnh, nhất là người lớn tuổi.
( Nếu uống quế mỏng dễ gây xuất huyết bao tử).
- Câu kỷ tử: Bổ tinh tủy, bổ máu, trị khô xương khớp, sáng mắt. Có tác dụng nhanh chóng. Mỗi ngày ăn sống 20 hột. Kiêng kỵ khi bị tiêu chảy.
Câu kỷ tử tính bình, vị chua ngọt, thận âm hoặc dương suy đều dùng được. Có tác dụng giải ure trong máu. Tăng tác dụng trong quá trình phục hồi thận. Giá rẻ, khoảng 20.000đ/lạng, sử dụng 1 tháng mới hết. Các bạn nên sử dụng thêm vì rất đơn giản nhưng hiệu quả bất ngờ.
- Sinh mạch thang: Bổ phổi. Nhân sâm: 12gr, Mạch môn: 8gr, Ngũ vị tử(tẩm mật): 40 hột. Sắc uống ấm.
- Tứ quân - lợi tiểu: Bổ khí tỳ phổi, lợi tiểu .Bài tứ quân thêm các vị lợi tiểu như: Trạch tả: 4gr, mộc thông: 4gr, trư linh: 6gr.
Thêm táo tàu: 2 quả, Gừng 3 lát. Sắc uống ấm.
- Tứ quân- Tiêu đàm: Bổ khí tỳ phổi, tiêu đàm. Bài tứ quân thêm các vị tiêu đàm như: Trần bì: 5gram, bán hạ: 5gram. Nghiền thành bột, mỗi ngày uống 4g-8g.
- Bổ trung ích khí: Bổ tỳ phế. Hoàng kỳ(sao với mật ong): 4gr, Nhân sâm: 6gr, Bạch truật: 6gr, , Đương quy(tẩm rượu sao): 4gr, Trần bì(sao thật vàng): 2gr, Cam thảo (tẩm mật): 2gr, Sài hồ: 2gr, Thăng ma: 0,4gr.
Thêm táo tàu: 2 quả, Gừng 3 lát. Sắc uống ấm.
- Lý trung thang : Bổ tỳ dương. Nhân sâm : 12 gr, Bạch truật (sao vàng): 8 gr, Gừng khô: 4 gr, Cam thảo: 2gr. ( 4 vị thuốc)
Nghiền thành bột, mỗi ngày uống 4g-8g.
- Phụ tử lý trung thang : Bổ mạnh tỳ dương, thận dương . Nhân sâm : 12 gr, Bạch truật (sao vàng): 8 gr, Gừng khô: 4 gr, Cam thảo: 2gr, phụ tử: 2gr.( 5 vị thuốc).
Nghiền thành bột, mỗi ngày uống 4g-8g.
- Quế phụ lý trung thang: Bổ tỳ dương, thận dương, mệnh môn hỏa. Nhân sâm : 12 gr, Bạch truật (sao vàng): 8 gr, Gừng khô: 4 gr, Cam thảo: 2gr, nhục quế: 4gr, phụ tử: 2gr.( 6 vị thuốc).
Nghiền thành bột, mỗi ngày uống 4g-8g.
- Điều nguyên cứu bản thang : Bổ mạnh tỳ dương, thận dương : Bạch truật(sao vàng): 40gr, Hoài sơn(sao vàng): 20gr, Thục địa(nướng):8gr, Thỏ ty tử: 16gr, Phá cố chỉ: 12gr, Nhục quế(mài ngoài): 4gr, Phụ tử: 4gr.
Nghiền thành bột, mỗi ngày uống 4g-8g. Hoặc sắc uống ấm.
- Trợ dương phương : Bổ mạnh tỳ dương, thận dương. Trị đờm suyễn, khó thở, huyết áp cao do thận dương hư.
Bạch truật(sao vàng): 30gr, Mạch môn(sao): 10gr, Gừng nướng đen: 10gr, Ngưu tất: 8gr, Phụ tử: 3gr, Ngũ vị tử(tẩm mật): 3gr.
Nghiền thành bột, mỗi ngày uống 4g-8g. Hoặc sắc uống ấm.
- Thanh kim đạo khí phương: lợi tiểu, trị nôn khan, khó thở, làm hạ huyết áp, giảm nhanh creatinin. Mạch môn(sao với gạo): 8gr, Xa tiền tử(sao qua): 4gr, Xích phục linh: 4gr, Trạch tả(tẩm muối sao): 6gr, Nhục quế(mài ngoài): 4gr, Ngưu tất: 4gr, Ngũ vị tử(tẩm mật): 20 hột, Trầm hương(mài ngoài): 2gr, Gừng sống: 3 lát.
Nghiền thành bột, mỗi ngày uống 4g-8g. Hoặc sắc uống.
- Bát trân : Bổ khí huyết, đi vào trong. Hợp bài tứ quân và tứ vật.
Nghiền thành bột, mỗi ngày uống 4g-8g hoặc sắc uống.
- Thập toàn đại bổ: bồi bổ khí huyết, đi ra ngoài da, ra chân tay . Hợp thang tứ quân và tứ vật, gia thêm hoàng kỳ: 10gr, nhục quế(mài ngoài): 2gr.
Nghiền thành bột, mỗi ngày uống 4g-8g hoặc sắc uống.
- Nhị long ẩm: Bổ mạnh tinh huyết, trị kém ăn, mặt úa vàng, không ngủ, da khô, tóc rụng . Cao ban long: 20gr, long nhãn: 20gr. cho 2 chén nước nấu còn 1, chia 4 lần uống trong 2 ngày.
Do một số bạn hỏi về trị bệnh tiểu đường, nên tôi nêu 2 bài thuốc rất đặc sắc của Hải Thượng Lãn Ông để trị bệnh này, tôi cũng từng dùng bài này để điều trị và có kết quả khả quan. Bệnh tiểu đường thường do thận âm, tỳ âm suy, nếu nặng thì cả thận dương, tỳ dương suy.
- Bồi thổ cố trung thang : bổ tỳ dương, tỳ âm. Bạch truật (sao vàng): 20gr, Thục địa(nướng): 10gr, Cam thảo(tẩm mật ong nướng): 2gr, Gừng (nướng đen): 2gr.
(Nếu thận suy thì uống kết hợp bát vị hoàn, lục vị hoàn.)
Nghiền thành bột, mỗi ngày uống 4g-8g, Hoặc sắc uống.
- Toàn chân nhất khí thang : bổ thận âm, thận dương, tỳ âm, tỳ dương.( Bổ âm nhiều hơn bổ dương).
Thục địa: 30gr, Bạch truật: (sao vàng hạ thổ):15gr, Mạch môn: 12gr, Ngũ vị tử(tẩm mật): 20 hột, Ngưu tất: 8gr, Phụ tử: 4gr, Nhục quế: 4gr, Đỗ trọng: 10gr.
Nếu phổi yếu thêm nhân sâm: 10gr.
Nghiền thành bột, mỗi ngày uống 4g-8g, Hoặc sắc uống.
- Nhị trần thang: Tiêu đàm ở phổi. Trị đàm suyễn, ung thư phổi do đàm, nước tràn dịch màng phổi, viêm phế quản, nôn.
Trần bì: 16gr, bạch phục linh: 8gr, gừng khô: 8gr, bán hạ: 8gr, cam thảo: 4gr. Nghiền bột, mỗi lần uống 4gr, ngày 1 -2 lần.
- Cấp cứu thủy: bổ tim, bổ tỳ vị, bổ mệnh môn hỏa, tính nóng. Trị suy tim, trúng gió liệt nữa người, đau cứng cổ gáy.
Nhục quế: 40gr, đại hồi: 40gr, gừng khô: 40gr, hoàng kỳ: 20gr. Nghiền bột, mỗi lần uống 2-4 gr, ngày 1-2 lần. Nếu trúng gió liệt nữa người, mỗi giờ uống 1 lần tới khi ấm người, sau đó uống giảm dần.
Tôi gặp một trường hợp cho thấy sự kỳ diệu của bài này. Kể ra để mọi người tham khảo:
Năm 2012, một phụ nữ khoảng 40 tuổi, nữa đêm bỗng nhiên trúng gió, cổ cứng ngắt không quay được, cố gắng quay thì đau đớn như xương bị gãy, tay chân bên trái yếu dần, các thớ thịt nhão ra. Chỉ trong 30 phút mà gần như liệt, trong khi tay chân bên phải vẫn bình thường. Tôi rờ da thịt vẫn thấy ấm, đo huyết áp bình thường 120/70, tim 70. Duy chỉ có xương sống từ đốt sống cổ tới lưng bị lạnh. Tôi biết là do gió lạnh nhiễm vào gây tê liệt dây thần kinh. Tôi dùng 10v bát vị hoàn giã nhỏ hòa nước ấm rồi đút từng muỗng cho uống vì người bệnh cũng khó uống viên được. Đợi một lúc thấy không thay đổi, tôi nghĩ dùng phụ tử lý trung hoàn để ấm tỳ vị sẽ giải phong được nên lấy 20v cũng giã nhỏ như trên cho uống. Một lúc thấy bắp thịt săn lại cho thấy có hiệu quả. Nhưng chỉ 10 phút sau thịt lại nhão. Lúc này tôi nghĩ dùng cấp cứu thủy tác dụng giải phong mạnh hơn nên lấy 20v giã ra cho uống. Thịt bắt đầu săn lại và thời gian kéo dài 60 phút sau đó mới nhão. Tôi lại lấy 30v cấp cứu thủy cho uống, bệnh nhân bắt đầu quay cổ được, tay chân cử động được một ít. Sau đó cứ mỗi giờ lấy 40v cấp cứu thủy cho uống, Bệnh nhân tốt lên dần. Ba lần như vậy tới sáng thì bệnh nhân khỏe như trước. Thật là kỳ diệu. Nếu trường hợp này mà bệnh viện xa thì khi đưa tới cũng tệ hơn nữa. Do đó nếu người hay bị trúng gió mà nhà xa bệnh viện cũng nên để dành trong nhà gói thuốc phòng khi rủi ro. Hoặc uống thuốc để người khỏe mạnh mà không bị trúng gió.
Các bài thuốc trên khi nghiền bột xong cần phơi khô, bỏ vào lọ kín, để nơi khô ráo, tránh ẩm ướt.
Toa rượu bổ của Chủ tịch Mao Trạch Đông tặng Chủ tịch Hồ Chí Minh
Bài thuốc này do Chủ tịch Mao Trạch Đông tặng Chủ tịch Hồ Chí Minh trong những năm tháng tình hữu nghị giữa hai dân tộc Việt Nam và Trung Quốc thắm thiết nhất. Vì vậy, bài thuốc này có một ý nghĩa lịch sử vô cùng to lớn. Sau khi được tặng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phổ biến và được nhiều người sử dụng đem lại hiệu quả rất tốt. Những người làm việc bằng trí óc khi dùng bài thuốc này thì không thấy mệt mỏi, trí óc sáng suốt, minh mẫn, ăn ngon, ngủ được. Còn những người làm việc chân tay gân cốt dẻo dai, lao động không biết mệt. Thành phần bài thuốc: 1. Nhân sâm (nhị bông sâm) 40g ( Nhân sâm lát) 2. Long nhãn nhục 40g 3. Dâm dương hoắc 40g 4. Lão thục địa 24g ( Thục địa) 5. Đẳng sâm 24g 6. Đương quy 24g 7. Bắc đỗ trọng (sao muối) 20g ( Đỗ trọng) 8. Hoàng tinh 20g 9. Nhục thung dung 20g 10. Hắc táo nhân 20g ( Táo nhân sao đen) 11. Bạch phục linh 15g 12. Bạch truật 16g 13. Chích cam thảo 16g ( Cam thảo tẩm mật ong) 14. Bạch thược 16g 15. Tục doạn 16g 16. Cam kỷ tử 16g ( Câu kỷ tử) 17. Ngưu tất 12g 18. Đại táo 10 quả 19. Đường phèn 300g ( Có tài liệu nói 120g) Cách ngâm: Thuốc đổ vào thẩu ngâm với 5 lít rượu ngon, sau 7 ngày lọc lấy rượu thuốc. Xong, nấu nửa lít nước sôi, hòa tan với đường phèn rồi đổ trộn với rượu thuốc mà dùng. Còn nước hai thì đổ 2 lít rượu ngon, ngâm 1 tháng sau mới dùng. Mỗi ngày uống 3 lần, sáng 1 ly nhỏ, trưa 1 ly, tối 1 ly, uống sau khi ăn cơm và trước khi đi ngủ. Bài thuốc này có tác dụng đại bổ khí huyết, điều hòa tang phủ. Bổ nhất là thận, tim, thần kinh, ngăn ngừa các bệnh phong, tê thấp, sốt rét hoặc sốt rét mới khỏe. Nếu bồi dưỡng thang này, chứng sốt rét không tái lại. . Lương y Thích Tuệ Tam (st) (Theo báo Thừa Thiên Huế). Sưu tầm. Nguồn: http://www.baobinhdinh.com.vn/603/2004/12/17259/ |
Bài này có tác dụng bồi bổ tổng hợp âm dương khí huyết tinh tủy gân xương, hổ trợ rất tốt cho người bệnh. Các bạn nên sử dụng thêm bài này. Người bị huyết áp cao cần cẩn thận.
Dấu ngoặt tên vị thuốc tôi giải thích thêm cho rõ.
PTS.
---------------------------------------
TÁC DỤNG CƠ BẢN CÁC VỊ THUỐC.
- Bổ thận dương: phụ tử.
- Bổ mệnh môn hỏa: nhục quế.
- Bổ thận âm: thục địa.
- Bổ khí: nhân sâm, hoàng kỳ, bạch phục linh, bạch truật, hoài sơn, thỏ ty tử, phá cố chỉ...
- Bổ huyết: đương quy, bạch thược, xuyên khung,...
- Lợi tiểu: trạch tả, trư linh, sa tiền tử, mộc thông, hoạt thạch, hổ phách, hành củ...
- Giải độc: phòng phong, tần giao.
- Tiêu đờm: trần bì, bán hạ.
- Dẫn xuống: ngưu tất.
- Dẫn lên: sài hồ, thăng ma.
- Tán ra ngoài: quế mỏng, hành củ, gừng sống.
- Tính thu liễm: ngũ vị tử, gừng nướng đen, mạch môn, phục thần, hạt sen.
- Hành khí: trầm hương, mộc hương, gừng sống.
-------------------------------------------------
Do các tiệm bán thuốc mỗi nơi gọi các tên quế khác nhau, nên tôi ghi ra đây để các bạn phân biệt cho đúng:
-Nhục quế: là loại vỏ dày ở thân cây, cạo bỏ lớp vỏ mỏng, ít cay, tác dụng đi vào trong, làm ấm bên trong cơ thể. Các bài thuốc trên chủ yếu dùng loại này. Khi sử dụng mài ngoài.( Nghĩa là nấu thuốc xong mới cho vào uống, vì quế kỵ lửa). Hiện giờ bột nhục quế xay sẵn bán khoảng 10000đ/lạng.
-Quế chi( Bạc quế): là loại vỏ quế mỏng ở cành cây, cay nhiều, tác dụng đi ra ngoài da, ra chân tay, chủ yếu giải cảm.
-Quế tâm: Phần gỗ cây quế, vị ngọt, đi vào tim, trị các bệnh về suy tim.
Chú ý: Các bài thuốc có phụ tử mà không có thục địa kèm theo là những bài bổ dương rất mạnh, thường dùng trong cấp cứu, chỉ nên sử dụng liều lượng ít, thời gian ngắn, khi giảm bệnh thì chuyển sang những bài khác nhẹ nhàng hơn.
Các bài thuốc này không có sẵn trên thị trường, bạn ra tiệm thuốc bắc cắt về rồi nghiền thành bột mà dùng.
Các loại thuốc trên bạn cho vào cối xay tiêu của máy sinh tố mà nghiền thành bột . Nếu bị ẩm khó nghiền, bạn cho vào ít bột năng sẽ dễ nghiền hơn.
Tôi cũng khuyên bạn nên làm sẵn vài bài thuốc hay dùng, cho vào hộp, dán nhãn , ghi tên thuốc , công dụng mỗi loại. khi cần thiết có sẵn mà dùng. Bởi vì khi uống thuốc thận sẽ có một số trường hợp xảy ra, ta phải dùng thuốc ứng phó cho kịp thời.
Các loại thuốc trên phổ biến, rẻ tiền, mua ở tiệm thuốc bắc. Mỗi thang khoảng 15000đ- 30000đ.
Do liều lượng tôi cho nhỏ nên một số tiệm không bán, vậy bạn nhân 2-5 lần khối lượng lên mà mua.
Tuy thuốc rẻ tiền, nhưng công hiệu rất đặc biệt, Đó là do sự phối hợp các vị thuốc tài tình của các danh y ngày xưa.
Ghi chú:
Uống thuốc bổ thận nhiều, thận tốt hơn nhưng sẽ làm tỳ vị suy yếu, người mệt mỏi kém ăn. Khi gặp trường hợp này, bạn tạm ngưng uống thuốc bổ thận vài ngày mà thay bằng bài "tứ quân", hoặc"Lý trung thang" hoặc "thập toàn đại bổ", hoặc "quy tỳ" hoặc " Bồi thổ cố trung thang".
Tốt nhất nên uống xen kẽ thuốc thận và thuốc bổ tỳ trong ngày.
Lưu ý quan trọng :
Đối với việc chữa bệnh thận, Uống thuốc cho cân bằng hai thận âm dương là điều rất quan trọng. Nó quyết định việc chữa khỏi hay không.
Bạn cần hiểu rõ cách gia giảm để có thể tự mình điều chỉnh cho thích hợp với tình trạng của mình. Ở đây điều chỉnh chủ yếu là thục địa trong bài bát vị. Nếu thận âm suy nhiều thì tăng thục địa, bỏ quế, bớt phụ tử. Còn nếu thận dương suy nhiều thì giảm thục địa.
Giải thích thêm cách trị bệnh để bạn có thể gia giảm thuốc tùy theo trường hợp của mỗi người :
Trong cơ thể , để khỏe mạnh cần có sự quân bình về âm dương , khí huyết. Âm là nói về thận âm, dương chỉ thận dương. Khí chỉ nguyên khí của tỳ, phế, huyết nói về máu chứa ở tim gan . Thận âm chủ về tạo máu, có tính mát. Thận dương chủ về hỏa, có tính nóng. Thận dương tàng trữ năng lượng , giống như nhà máy phát điện, để cung cấp năng lượng cho toàn bộ cơ thể, duy trì mọi hoạt động bình thường.
Khi thận âm , thận dương cân bằng, cơ thể sẽ khỏe mạnh, khi một thận bị suy yếu, cơ thể sẽ bị xáo trộn gây bệnh tật:
+Thận âm suy gây tình trạng thiếu máu, tăng huyết áp, người nóng, xuất huyết....
+Thận dương suy gây tình trạng suy nhược cơ thể, người lạnh, hạ huyết áp...
(Có trường hợp cũng tăng huyết áp, nguời nóng...)
Cách bồi bổ cho thận cũng trái ngược nhau. Thuốc bổ cho thận dương có tính rất nóng, còn thuốc bổ cho thận âm lại rất mát.
Khi một thận bị suy gây chênh lệch giữa hai thận , ta cần phải bổ cho thận bị suy để đạt đến sự cân bằng. Khi đã đạt đến sư cân bằng, cơ thể sẽ khỏi bệnh và hoạt động tốt trở lại. Lúc này ta cũng ngưng uống thuốc. Nếu cứ tiếp tục uống nữa, Lại gây ra tình trạng chênh lệch, ta lại bị những bệnh khác.
Thông thường có 2 trạng thái bệnh, 1 thận bị suy hoặc cả hai thận đều bị suy. Nếu một thận bị suy, ta chỉ cần bổ cho thận suy là đủ. Nếu cả hai thận đều bị, ta cần bổ cho cả 2 .Khi cả 2 thận bị suy, ta cần xét xem thận nào suy nhiều thì uống thuốc bổ thận đó nhiều hơn.
Còn nói về khí huyết, cũng cần quan tâm đặc biệt. Khí thường gọi là nguyên khí, chứa ở tỳ , phế, có công năng tiêu hóa thức ăn, duy trì sức mạnh của phổi, cung cấp năng lượng cho hoạt động của tim, gan. Nếu khí yếu sẽ làm hạ huyết áp, bí đường tiểu, người lạnh. Còn huyết chứa ở tim gan, có tác dụng tuần hoàn nuôi dưỡng cơ thể. Nếu thiếu huyết sẽ làm người nóng, gây ra các bệnh về huyết.
Khí huyết trong cơ thể cũng cần đạt sự quân bình, nếu chênh lệnh cũng gây ra bệnh.
Khi chữa bệnh ở thận, thường sẽ làm khí huyết suy yếu, làm người mệt mỏi kém ăn, vì vậy cần chú ý bồi bổ khí huyết cho cân bằng.
Tốt nhất vừa bổ thận vừa bổ tỳ vị. Có thể uống xen kẽ thuốc bổ tỳ vị như bài phụ tử lý trung thang, lý trung, tứ quân, quy tỳ, nước gạo rang...
Tim phổi thuộc vùng thượng tiêu, tỳ thuộc vùng trung tiêu, gan thận thuộc vùng hạ tiêu. Chú ý bồi bổ cho ba vùng đạt sự quân bình.
Tóm tắc:
Âm, dương, khí , huyết như tứ trụ trong cơ thể. Tứ trụ này có vững, có quân bình thì cơ thể mới mạnh khỏe. Khi 1 trụ bất kỳ bị suy yếu đều có thể gây rối loạn sự hoạt động và sẽ gây ra bệnh tật trong người. Vì vậy, Trong việc chữa bệnh bằng đông y, việc phát hiện trụ nào suy yếu để bồi bổ cho đạt sự quân bình là rất quan trọng, Nó quyết định quan trọng nhất trong việc trị liệu. Như Hải Thượng Lãn Ông từng nói: Người ta có hàng trăm bệnh khác nhau, chẳng qua chỉ là mất quân bình về âm-dương- khí -huyết, cách chữa trăm bệnh cũng như cách chữa một bệnh mà thôi.
----------------------------------------------------------------------------
Hiện giờ trên thị trường có bán " Bát vị hoàn" , " Lục vị hoàn" của công ty dược phẩm OPC. Giá 50.000đ/hộp. Mỗi hộp có 240 viên, nhỏ như hột đậu đen.
- "Bát vị hoàn" bổ thận dương, tính nóng
- "Lục vị hoàn " bổ thận âm, tính mát.
Các bạn nên mua 2 loại này về uống cho tiện, dễ gia giảm, khỏi cần phải sắc thuốc.
Thuốc này tốt mà lại rẻ . Được bào chế đúng với bài bát vị cổ truyền. Tôi hướng dẫn liều lượng dựa trên thuốc này.
Mỗi hộp uống khoảng 15 ngày .(Mua ở tiệm thuốc bắc hoặc tiệm thuốc tây)
Thông thường, khi chạy thận nhân tạo, thận dương suy nhiều hơn, nên các bạn chú ý uống bát vị hoàn, còn lục vị uống khi thấy người bị nóng. Nếu uống nhiều lục vị, người sẽ rất lạnh, bị phù người, gây tràn dịch màng phổi, hoặc phát sốt.
Bài bát vị có tác dụng bổ thận rất mạnh, chỉ cần uống vài thang là có tác dụng phục hồi thận đáng kể.
-Chi nhánh Miền Bắc
26 BT1 Lô 2 Khu đô thị Mễ Trì Hạ xã Mễ Trì - huyện Từ Liêm - Hà Nội
ĐT: 04.37875336 - 04.37875337 -
-Chi nhánh Miền Trung
- 99B Nguyễn Thái Học, P.Lê Lợi - TP.Vinh, tỉnh Nghệ An. ĐT:038.3585239 -
- Lô A 29-35 khu đô thị đường Nguyễn Hữu Thọ, P.Khuê Trung - Q. Cẩm Lệ - TP.Đà Nẵng.
ĐT : 0511.3697888 -
- 70B Lê Hồng Phong, P.Phước Hải - TP.Nha Trang - ĐT : 058.3871315 -
Hướng dẫn uống bát vị hoàn và lục vị hoàn.
- Nếu thận dương suy hơn thận âm, dùng 10 viên bát vị , ngày 2 lần.(bổ dương 7 phần, bổ âm 3 phần)
- Bổ 2 thận ngang nhau , dùng 10 viên bát vị + 5 viên lục vị, ngày 2 lần.
- Bổ thận âm nhiều hơn thận dương một chút: dùng 5 viên bát vị + 5 viên lục vị, ngày 2 lần.
- Nếu thận âm suy hơn thận dương nhiều, dùng 10 viên lục vị + 5 viên bát vị , ngày 2 lần.
- Nếu thận âm quá suy, dùng 5 hoặc 10 viên lục vị, ngày 2 lần.
Nếu uống thấy tác dụng chậm, có thể tăng liều lên.
Cần uống kèm thêm các bài : tứ quân, lý trung thang, quế phụ lý trung thang, phụ tử lý trung thang, bát trân, thập toàn đại bổ, quy tỳ, tứ linh, quế mật ong, nước gạo rang...tùy theo tình trạng của mỗi người cho thích hợp.
- Khi người bị phù, tràn dịch màng phổi, đó là triệu chứng thận dương suy nặng, bạn chỉ uống bát vị thôi, uống 5-10 viên bát vị, ngày 2 lần , uống thêm bài thanh kim đạo khí + quế+ mật ong để lợi tiểu, người sẽ hết.
Có thể dùng nước ấm hòa quế+ mật ong để uống bát vị hoàn, lục vị hoàn.
Uống trước bữa ăn hoặc sau đều được .
Không kiêng cử về ăn uống.
Các loại thuốc tây uống cách thuốc đông y 2 tiếng .
(Bát vị hoàn có tác dụng bổ cả âm dương nhưng bổ dương 7 phần, bổ âm 3 phần)
Đối với người chạy thận nhân tạo, bí tiểu , tràn dịch màng phổi , phù người, suy tim là điều đáng sợ nhất. Nhưng hiện nay đã có bài Bát vị + thanh kim đạo khí + quế+ mật ong là khắc tinh của nó .
Xem hướng dẫn bằng video:
Phần 1: http://www.youtube.com/watch?v=doDzocg2xN4
Phần 2: http://www.youtube.com/watch?v=3KO5jDVOtlU
Video " Chương trình tôn vinh báu vật gia truyền Việt Nam":
http://www.youtube.com/watch?v=FTMnQzG9pro
Video của thầy Đỗ Đức Ngọc hướng dẫn chữa gan thận:
http://www.youtube.com/watch?v=Sc1yHY1UegM&NR=1&feature=endscreen
Video : Gặp những người chạy thận nhân tạo. Điều trị có kết quả tốt.
https://www.youtube.com/watch?v=4C2luQ21SAk
---------------------------------------------------------
DÙNG THUỐC GÌ ĐỂ UỐNG "BÁT VỊ HOÀN"
1.Chiêu bằng nước muối loãng là để đem hỏa trở xuống.( Chiêu tức là dùng nước thuốc để uống bát vị hoàn dạng viên)
2.Chiêu bằng nước gạo rang(vàng đậm) để bổ thêm tạng tỳ.
3.Chiêu bằng nước lã đun sôi là không chóng không chậm.
4.Chiêu bằng rượu hâm nóng là để dẫn thuốc cho mạnh.
5.Sắc nước bài "Bổ trung ích khí" để chiêu đi, là e bài "Bát vị" đi xuống dưới quá mức mà dưới thực trên hư, thời lại đem nguyên khí lên phần nào.
6.Sắc bài "Lý trung thang" lấy nước để chiêu đi, là gặp chứng tỳ và vị lạnh quá, phải ôn trung tiêu mới dẫn được sức thuốc của bài "Bát vị".
7.Sắc bài "Sinh mạch thang" lấy nước để chiêu đi, là giúp cho tạng phế mạnh lên để sinh ra ra thận.
8.Sắc bài "Quy tỳ thang" lấy nước để chiêu đi, là để bổ cả khí huyết về hậu thiên, cũng như uống xen với bài "Quy tỳ".
9.Sắc nước sâm(sao với gạo) để chiêu đi, là để sinh cả dương khí.( Trường hợp người mệt, huyết áp hạ).
Những phép chiêu thuốc hoàn kể trên, vì bệnh chứng cần cấp, cần phải chữa cả gốc(Thận) và ngọn(Khí huyết) nên phải mượn sức mạnh của những nước kể trên chiêu đi, để mở đường đưa thuốc của bài "Bát vị" xuống đến hạ tiêu, công dụng của thuốc nước vừa qua, thời công dụng của thuốc hoàn sẽ tới.
--------------------------------------------------------
Cẩn thận :
+ Một vài trường hợp rất khó xác định thận nào suy hơn, do đó khi uống thuốc nếu thấy có các biểu hiện xấu, tức là đã chẩn đoán sai, các bạn phải nhanh chóng gia giảm lại thuốc. Hoặc uống với liều lượng ít để theo dõi.
+ Đang uống thuốc có biểu hiện tốt, chứng tỏ thận đang đi đến cân bằng, các bạn cứ tiếp tục uống. Nếu thấy từ từ giảm rồi chuyển qua biểu hiện xấu, tức là thận đang chuyển qua giai đoạn mất cân bằng, các bạn cũng cần gia giảm lại .
===================================
CÁCH PHÂN BIỆT THẬN DƯƠNG - THẬN ÂM SUY.
Về mạch:
Xét bộ mạch xích bên phải yếu hơn bộ xích bên trái, là thận dương hư tổn .
Về hình :
Dương hư hình thể gầy, diện bộ bạc nhược hay là béo trắng mà trệ nệ.
Âm suy hình thể gầy đen hay là lưỡng quyền và mép thường đỏ.
Về chứng bệnh :
Dù là ở trên nóng giống nhau, nhưng ta phân biệt rằng khát mà không uống được nhiều là dương suy, khát mà uống nhiều là âm suy.
Trên nóng dưới lạnh, trong người lạnh ngoài da nóng, đại tiện lỏng phân là dương suy.
Nóng cả người, đại tiện táo kết là âm suy.
Các triệu chứng thận dương suy:
- Lòng bàn chân lạnh.
- Viêm amidan, viêm họng, uống nước đá càng sưng.
- Nước tiểu trong như nước suối.
- Hay đi tiểu đêm.
- Nóng sốt bên ngoài mà sợ lạnh, trán nóng mà lòng bàn chân lạnh.( Trường hợp này người lớn hay trẻ em thường bị . Người lớn uống 10 viên bát vị, trẻ em uống 1 viên, chỉ 1 lần là giảm bớt đáng kể. Sau vài lần uống là ổn định. Nhiều trường hợp bị sốt cấp tính như vậy, khi đi bệnh viện, họ hạ sốt, sau đó đưa đi chạy thận. Thật là oan uổng. Nếu chúng ta biết xử trí sẽ tránh được nguy cơ chạy thận , lại rất đơn giản).
--------------------------------------------------------
Chúc các bạn mau khỏi bệnh.
Lương Y : Phạm Trọng Sơn.
ĐT : 0909 658341
Các bạn có thể gọi đt để tư vấn thêm: 0909 658 341
Bạn nào theo hướng dẫn trên để chữa bệnh, hãy ghi tên tuổi, địa chỉ, số điện thoại, tình trạng bệnh cùng kinh nghiệm chữa của mình để mọi người học hỏi thêm. Chúng ta hãy tạo một diễn đàn, nơi những người bị bệnh thận có nơi để trao đổi thông tin. Các bạn ghi vào phần nhận xét. Cám ơn các bạn.
--------------------------------------------
SƠ LƯỢC LỊCH SỬ BÀI BÁT VỊ.
Trước vua Vũ Đế nhà Hán bên Trung Hoa cầu làm thần tiên, uống nhiều thuốc đan sa, rồi phát sốt khát nước nhiều, tiểu tiện nhiều. Ông Trương Trọng Cảnh ( tên hiệu là Tràng Sa) chế ra phương thuốc này để chữa cho nhà vua được khỏe.
Bài này để chữa chứng hỏa mệnh môn suy yếu, tướng hỏa ở hậu thận bên phải không đầy đủ, nên không sinh được tỳ , đến nổi tỳ vị yếu mà lạnh, người gầy, khí kém, không thiết ăn uống, đại tiện lỏng, rún và bụng hay đau, đêm hay đi tiểu tiện, hỏa kém đờm nhiều.
Sách Tinh yếu có nói " Bài bát vị này, uống lâu thời người mạnh mà sinh con trai". Ông Trọng cảnh có nói : " người khí hư yếu mà có đờm uống bài bát vị để bổ thời trục được đờm, Chữa chứng nước dềnh lên thành đờm thời bài bát vị này là thánh dược"
Các chứng bệnh phong, bệnh lao, cổ chướng, chứng cách , uống bài bát vị đều có thể khỏi.
Nếu bỏ phụ tử, quế trong bài bát vị, sẽ thành bài lục vị, bổ thận âm.
Bài lục vị chữa chứng tạng can ,tạng thận không đầy đủ, chân âm suy kém, tinh khô huyết kiệt, đau lưng mỏi chân,di tinh, tiện huyết, khát nhiều đi đái nhiều( tiểu đường), thổ huyết, răng lung lay, chữa chứng phát sốt của trẻ em, gót chân đau, lưỡi khô hay đau...
Hải Thượng rất chú trọng 2 bài bát vị và lục vị.Ông thường nói 2 bài này là thánh dược, có công năng xoay chuyển tình thế. Ông thường xuyên dùng cho các bệnh nhân bệnh rất nặng, hiểm nghèo. Hễ dùng đến là có công hiệu tức thời. Ông nói, bệnh nhẹ thì chữa về khí huyết, bệnh nặng thì chữa về âm dương. Bệnh nặng mà chữa về khí huyết thì không có tác dụng. Ông nói âm dương là gốc của cơ thể, mọi bệnh đều có liên quan đến âm dương.
Tuổi thọ hay chết yểu đều nằm ở âm dương.
Trích " Hải Thượng y Tông Tâm lĩnh "
===========================================
Một số bệnh nan y được Hải Thượng Lãn ông chữa trị
(Ghi trong bộ " Hải Thượng Y tôn tâm lĩnh")
1- Chứng bán thân bất toại.
Một vị quan Tướng quốc họ Lý, vì dẹp giặc trải nhiều phong sương, thành bệnh cánh tay bên trái ngay ra mà đau, không với được lên đầu và sau lưng. các thầy thuốc đã dùng thuốc khu phong mà không công hiệu. Bệnh nhân đại tiện ra như viên đạn. Bộ mạch đại mà trì, hoãn, không có thần.Thế là khí ở trong hư yếu đã lâu, khí huyết không chu lưu đến chân tay mới thành ra chứng khô nửa người như kể ở trên.
Tôi cho uống bài Bát vị thêm ngưu tất, đỗ trọng. Mỗi lần uống 4 chỉ ( 1 chỉ = 1 đồng cân = 4 gram) với nước muối loãng, mà ăn cơm đã lâu, thời dùng bài quy tỳ thêm ít quế chi (quế vỏ mỏng)và quế tâm(phần gỗ cây quế), rồi khí huyết sung túc mà mọi chứng khỏi hẳn.
2- Chứng chiêm bao lạ.
Tước vương Uyển Bình gặp chứng nằm chiêm bao mang đồ nặng nhọc, mà tỉnh ra vẫn thấy mệt. Khi ngủ lại chiêm bao như trước. Như thế một đêm đến mấy mươi lần.. Thầy thuốc đã dùng thuốc bổ tâm an thần nhưng không có công hiệu.
Người ngủ thời tâm thần tàng nạp về thận. Đó là thủy hỏa gặp nhau, âm dương làm xong công việc. Nay âm tạng tâm không đầy đủ, chỉ có hỏa bốc lên mà không tương giao với tạng thận, khí của tạng thận đã yếu, không đem lên để hợp với âm của tạng tâm, mà thiếu chức vụ bế tàng lại.
Tôi nghĩ như vậy mới dùng bài bát vị hoàn thêm ngũ vị, ngưu tất và lấy đăng tâm(bấc đèn) với hạt sen sắc lấy nước để uống thuốc thời bệnh nhân được yên.
3- Chứng đi tả về sáng sớm.(Thần tả)
Ông Kim Thiệu phải chứng đi cầu về sáng sớm. Mạch thời 2 bộ thốn, bộ quan đều nhược, trầm, và vô lực, hai bộ xích lại rất trầm. Tôi cho uống bài bát vị bỏ mẫu đơn, trạch tả, thêm phá cố chỉ, ngũ vị tử, thỏ ty tử làm thuốc hoàn. Sáng và chiều uống 4 chỉ (20gram) thời bệnh khỏi, mà nữa năm sau sanh được con trai. Cho nên sách " Tinh yếu" có nói: " Uống bài bát vị thời người mạnh và nhiều con trai".
4- Chứng sốt rét.
Một người tú tài mắc phải chứng sốt rét. Lúc sốt thời lợm lòng đầy bụng, các thầy thuốc cho là vì đàm vì ăn mà dùng những vị thuốc cay và nóng, Nhưng không biết vị tú tài ấy vốn có chứng lục huyết, nên uống như thế thời huyết ra nhiều quá mà bất tỉnh nhân sự, mồ hôi lạnh mà đông như cúc áo, bốn chân tay cũng lạnh, mạch tỳ vị sắp tuyệt. Tôi mới cho uống hơn một lạng sâm(40gram), dù có tỉnh ra nhưng phát nấc không ngừng. Tôi mới dùng thuốc ôn bổ, rồi cho uống bát vị hoàn, xen với bài thập toàn đại bổ mà khỏi hẳn.
5- Chứng đi đái ra huyết.
Người họ Lý đã 60 tuổi, phải chứng đái rắt đã 2 năm, có lúc đi dễ mà vội vàng, có lúc một giọt cũng không đi được mà bụng dưới đau như cắt ra, nước tiểu thời như mỡ hay ra huyết tím. Tôi xét mạch thời 2 bộ thốn hồng và đại, các bộ khác đều vô lực mà mạch tạng can tạng thận tệ hơn.Thế là tạng can để vợi đi, tạng thận để vít lại đều không giữ được chức vụ.
Tôi mới cho uống bài bát vị, thêm mạch môn, thăng ma, hồng hoa và uống thêm nước sâm cho thanh khí thăng lên, trọc khí giáng xuống, ứ huyết tản đi, thời bệnh nhân đỡ dần. Sau tôi sắc bài sinh mạch để uống bát vị hoàn mà quá trưa uống bài quy tỳ gia giảm, thời bệnh nhân khỏi hẳn.
6- Cầu tự.
Một người muộn có con. Mạch bộ xích bên phải vô lực, thế là thận dương kém, mạch bộ xích bên trái không trầm không thạch, thế là thận âm cũng kém. Tôi mới dùng bài bát vị hoàn cho uống. Nhưng lại xét rằng, nếu huyết kém thì không sinh được tinh, mà tạng tâm chủ về huyết,( người không có con là bởi tạng tâm, người bạc tóc là bởi tạng thận), nên việc cầu tự không những phải bổ tạng thận mà còn phải bổ tạng tâm.
Vì lẽ đó, mà tôi còn làm thuốc hoàn như sau để cho bệnh nhân uống:
-Hoàng kỳ : 160gram.
-Đương quy: 120gram.
-Táo nhân: 120 gram.
-Thục địa: 240gram.
-Bạch truật : 160gram.
-Viễn chí : 80gram.
-Mạch môn : 120gram.
-Bạch thược: 80gram.
-Đỗ trọng: 120gram.
-Tục đoạn: 120gram.
-Ngưu tất : 120gram.
Trước hết lấy 1,2 kg hạt sen bỏ lõi và màng ở ngoài rồi sắc lấy nước bỏ bã, xong đem những vị thuốc kể trên cho vào nước ấy đun thành cao rồi cho vào những vị thuốc đã tán bột kê sau đây:
-Nhân sâm: 200gram.
-Phục linh: 120gram.
-Phục thần: 120gram.
Sau đó, làm thành viên, mỗi viên nặng 16gram, lúc đi ngủ uống 1 viên với nước ấm, uống xen với bát vị hoàn. Như thế thời bệnh nhân được khỏi mà sau sinh con trai.
7- Chứng thạch thư.( Nhọt rắn như đá).(Theo mô tả tôi th%